Châu, lều cô luôn cách rất xa rất xa mọi người, thủ lĩnh nơm nớp lo sợ, sợ
cô xảy ra chuyện khiến Phật sống tức giận, từng tìm cô mấy lần, khoa tay
múa chân nói cho cô như vậy rất nguy hiểm, Tạng Bắc có gấu ngựa, còn có
sói.
Lạp Mỗ đã học được tiếng Tạng đơn giản, cô nói: "Không có gì đâu."
Cô hay giúp người Đa Mã chăm sóc bò yak, pha trà bơ, làm
Tsampa(*), nhưng cô thích ở một mình, rất ít khi nói chuyện với mọi
người, cô thường leo lên sườn dốc cao treo đầy Kinh Phan(**), một mình
đứng đó rất lâu, vung những những lá cờ Phong Mã (***) đầy màu sắc lên
không trung, có lúc không hiểu sao lại khóc, trong lều của cô có ba ngọn
đèn bơ không bao giờ tắt, vô số buổi đêm, cô vừa trông coi đèn bơ vừa
xoay chuyển kinh luân, mỗi khi ánh đèn tối đi, cô liền dừng lại cho thêm bơ
vào.
(*) Làm từ bột mì, là thức ăn chủ yếu của người dân tộc Tạng.
(**) Chỉ cờ vải hoặc viết hoặc in ấn kinh Phật được giăng trên núi.
(***) Còn gọi là cờ Lungta thường được làm bằng vải hình vuông
màu trắng, xanh dương, vàng, xanh lá và đỏ, bên trên ghi những lời cầu
nguyện.
Có một lần gió tuyết nổi lên mấy ngày liên tiếp, lúc gần sáng vùng bên
cạnh có tiếng sói tru, thủ lĩnh trong lòng sợ hãi, đánh thức mấy tay thợ săn
cầm theo vũ khí vội vàng đến lều của cô, trong ánh nắng buổi sớm nhìn
thấy Lạp Mỗ đứng ngoài cửa lều, quanh người loang lổ vết máu, lao đến
gần, mấy người đều hít một ngụm khí lạnh.
Ba cái đầu sói, phanh ngực mở bụng, ruột rơi đầy đất, Lạp Mỗ cười
cười, nói: "Tặng các anh da, may quần áo."