đã nổi lên. Cô gái thò đầu ra ngoài sân đợi cho đến khi nghe thấy tiếng cú
rúc vọng tới và lúc này ý muốn được tự do đã dứt đứt sợi dây tình cảm từng
ràng buộc cô với bà mình.
Cô chỉ mới bước ra khỏi rạp khoảng năm bước thì gặp bác phó nháy đang
hì hục buộc đồ nghề lên chiếc xe đạp. Nụ cười hóm hỉnh của bác làm cô gái
yên tâm.
- Tôi không biết gì cả - bác nói - chẳng nhìn thấy gì và tôi cũng không trả
tiền!
Cô gái tạm biệt bác, chạy một mạch vào hoang mạc và mất bóng trong cơn
gió mù mịt bụi, cơn gió đang thổi tới tai cô tiếng cú rúc.
Lần này bà già chạy ngay tới kêu cửa nhà chức trách. Viên chỉ huy đơn vị
bộ đội địa phương bật dậy khỏi giường vào lúc sáu giờ sáng cũng là lúc bà
già trình trước ngài tờ chứng chỉ của ông nghị Ônêximô Xăngchết. Bố của
Uylix cũng chờ ngoài cửa.
- Đồ con khẹc… Lại còn bắt ta phải đọc thư nữa! Nào ta có biết đọc cho
cam.
- Đó là thư của ông nghị Ônêximô Xăngchết đấy ạ!
Chẳng cần biết nếp tẻ gì hơn, viên chỉ huy với tay cầm lấy khẩu súng để ở
đầu giường, rồi quát tháo ra lệnh cho bọn tùy tùng của mình. Chỉ năm phút
sau, tất cả đều đã ngồi vào chiếc xe tải phóng như bay về phía biên giới. Nó
phóng ngược chiều cơn gió đang xóa sạch dấu vết của những kẻ chạy trốn.
Viên chỉ huy ngồi phía trước bên cạnh người lái xe. Phía sau là lão lái buôn
người Hà Lan và bà già. Còn bọn lính tráng ngồi ở phía sau xe.
Ngay sát cạnh làng, bọn họ đã dừng một đoàn xe tải bịt bạt kín mít. Những
người ẩn trên những thùng xe này đã vén bạt lên chĩa họng súng máy và
súng trường vào chiếc xe tải nhà binh có viên chỉ huy đang ngồi. Viên chỉ
huy hỏi người tài xế ngồi trên ca-bin chiếc xe đầu tiên của đoàn xe nọ rằng
họ đã gặp chiếc xe chở lồng chim cách đây bao lâu rồi.
Người lái xe mở máy trước khi trả lời:
- Chúng tôi không phải là quân mách lẻo mạt hạng. Bọn buôn lậu chính là
chúng tôi đây!
Viên chỉ huy tận mắt nhìn thấy những họng súng đen ngòm lướt qua ngay