trương với vợ chồng ông bà Givens, để họ thấy một nhà báo thực sự là như
thế nào. Cuối cùng, ông ta buộc tôi thừa nhận rằng tôi đã không hề gọi điện
kiểm tra bất cứ tin cáo phó nào trong ngày hôm đó, và thực ra là đã không
làm thế từ lâu nay.
Bây giờ, sau khi đã có câu trả lời, ông trưởng ban biên tập có vẻ không
biết phải làm gì với nó. Có vẻ, ông ta đã đạt được nhiều hơn những gì ông ta
mong muốn. Đầu tiên, ông ta ngồi thừ người ta. Sau đó, ông ta nói: “Hãy nói
lại tôi nghe. Tờ báo này đã chạy các tin cáo phó không có xác nhận từ bao
lâu rồi?”
“Khoảng ba tháng”, tôi nói. Và khi tôi thừa nhận điều này, tôi cảm thấy
một nụ cười ở trên môi mình; nó ở đó trước khi tôi kịp ngăn nó hoặc tẩu tán
nó. Nụ cười ấy là sự nhếch mép của nỗi sợ hãi, nó là nụ cười mà tôi đáp lại
mẹ tôi khi bà nói rằng cha tôi đã chết. Dĩ nhiên, ông trưởng ban biên tập
không biết điều này.
Ông trưởng ban biên tập ngả người về trước và lắc đầu nhè nhẹ như
một con ngựa, rồi nói: “Dọn dẹp bàn làm việc của cậu đi!”. Tôi nghĩ ông ta
không định sa thải tôi; trông ông ta cũng kinh ngạc với những lời mình thốt
ra. Nhưng ông ta không rút chúng lại.
Ông bà Givens nhìn nhau. “Nào, khoan đã”, ông Givens nói. “Không
cần phải làm to chuyện thế. Đây chỉ là một trường hợp sai và sửa sai thôi
mà. Không cần phải đuổi việc ai cả”.
“Cậu ta đã chẳng bị đuổi việc nếu cậu ta làm đúng”, bà Givens nói.
Dĩ nhiên là bà ấy nói hoàn toàn chính xác.
Tôi dọn dẹp bàn làm việc. Khi tôi rời tòa nhà, tôi thấy ông Givens đứng
cạnh quầy bán báo và đang theo dõi cửa ra vào. Không thấy bà vợ ông ấy.
ông Givens bước đến chỗ tôi, giơ tay ra. “Biết nói gì nhỉ? Tôi không biết
phải nói gì với cậu”.
“Không sao đâu”, tôi nói với ông ta.