“Tôi không định làm cậu bị đuổi việc. Tôi thậm chí cũng chả định đến
phàn nàn, thật đấy”.
“Không sao đâu. Lỗi tại tôi”, tôi đang bê một cái hộp đầy sổ sách giấy
tờ. Cái hộp nặng. Tôi chuyển nó qua tay kia.
“Nghe này”, ông Givens nói. “để tôi mời cậu đi ăn trưa nhé. Cậu nói
sao? Ít nhất tôi cũng có thể làm điều đó”.
Tôi nhìn hai bên phố.
“Dolly về nhà rồi”. – ông Givens nói. “Thế nào?”
Tôi thực sự không muốn ăn trưa với ông Givens nhưng có vẻ điều đó
rất quan trọng với ông ta và tôi cũng chưa muốn về nhà vội. Tôi biết làm gì
ở nhà? Được rồi, tôi nói, ăn trưa cũng được. Ông Givens hỏi tôi có biết quán
ăn tử tế nào gần đây không. Có một tiệm ăn Tàu ở cách đó mấy cái cửa
nhưng chỗ đó lúc nào cũng đầy phóng viên. Tôi không muốn họ giả bộ
thông cảm với tình cảnh của tôi rồi lại cười hô hố ngay khi tôi đi khỏi – dĩ
nhiên cũng chả trách họ được. Tôi gợi ý quán Tad’s Steakhouse ở gần trạm
đỗ xe điện. Một miếng bít-tết ba lạng, sa-lát và khoai tây bỏ lò ở đó chỉ có
một đô hăm chín xu. Đây là năm 1974.
“Tôi không nghèo đến thế đâu”, ông Givens nói nhưng ông ấy cũng
không phản đối và chúng tôi đi tới quán đó.
Ông Givens chỉ khều khều mấy miếng rồi đẩy đĩa thức ăn sang bên.
Khi tôi hỏi miếng bít-tết của ông ấy có ổn không, ông ấy nói nó ổn, ông ấy
chỉ không muốn ăn.
“Ông nghĩ là ai đã gọi điện đăng cáo phó?” tôi hỏi.
Ông ta cúi đầu và ngước nhìn tôi qua đôi lông mày.
“Chịu. Tôi cũng chả biết”.
“Chắc là ông phải có manh mối gì chứ” .
“Không. Tôi chịu chết”.
“Có thể là một ai đó từng làm việc với ông?”