lắm”.
Cả hai đều không ngủ. Louise hút thuốc liên tục và Mary nhìn lửa tàn
dần. Khi trời hửng sáng đủ để họ nhìn thấy mặt nhau, Louise trở dậy. “Tôi sẽ
cử một sinh viên đến đón cô”, chị ta nói. “Chúc may mắn”.
Trường đại học trông hết sức mẫu mực. Roger, người sinh viên được
giao nhiệm vụ đưa Mary đi thăm trường, giải thích rằng trường này lấy mẫu
từ một trường đại học bên Anh, kể từ những cái tượng thú trên các nóc nhà
cho tới các cửa sổ gắn kính màu. Trông nó giống hệt một trường đại học mà
các nhà làm phim thỉnh thoảng lấy làm cảnh phim. Bộ phim Andy Hardy vào
đại học đã được quay ở đây và mùa thu nào trường cũng tổ chức một ngày
“Andy Hardy vào đại học” với những tấm áo choàng lông chồn và các cuộc
thi nuốt cá vàng.
Trên cánh cửa tòa nhà tưởng niệm các sáng lập viên của trường là một
dòng khẩu hiệu bằng tiếng La-tinh mà dịch thoáng thì có nghĩa là “Chúa cứu
những người biết tự cứu mình”. Trong lúc Roger liệt kê tên tuổi những cựu
sinh viên nổi tiếng của trường, Mary nhận ra những người này đều đã tuân
thủ tuyệt đối khẩu hiệu trên. Họ đã tự cứu mình trong ngành đường sắt, hầm
mỏ, quân đội, và chính trị, rồi cả các đế chế tài chính trên khắp thế giới
.
Roger đưa Mary đến nhà nguyện và chỉ cho cô thấy một tấm biển có
tên của tất cả các cựu sinh viên từng bị chết trận kể từ thời nội chiến nước
Mỹ. Không có nhiều tên trên tấm biển. Cả ở đây nữa, những sinh viên của
trường đã tự cứu mình. “À vâng”, Roger nói khi họ rời khỏi tấm biển. “Em
quên không nói với cô. Bục nhận thánh lễ được mang từ một nhà thờ bên
châu Âu sang, chỗ mà vua Charles Đệ Nhất thường đi lễ”.
Họ đi vào nhà thể thao của trường, rồi tới hai sân chơi hockey, hai thư
viện, nơi Mary kiểm tra danh mục sách như thể cô sẽ từ chối nhận việc ở
đây nếu như họ không có những quyển sách cần thiết. “Chúng ta vẫn còn
thời gian”, Roger nói khi họ ra ngoài. “Cô có muốn đi thăm nhà máy điện
không?”
Mary muốn bận rộn liên tục cho tới phút cuối nên cô đồng ý.