Mitch gật đầu. “Thì thế”, anh nói chua chát. “Anh đang phải sửa đây.
Tử tế chả đi đến đâu cả”.
“Amen!” Ted nói.
“Đây, ví dụ luôn nhá”, Mitch nói tiếp. “Hồi xưa tôi làm trợ lý luật cho
một lão ở trong phố; lão này nghĩ là lão ấy không thể sống thiếu một cô ả mà
lão ấy đang bồ bịch. Thế là lão ấy đi nói với vợ lão; dĩ nhiên là mụ ấy tống
lão ra khỏi nhà. Thế rồi cô ả kia đổi ý; mà nó cũng chả thèm giải thích với
lão ấy vì sao. Hồi xưa bọn tôi hay ăn trưa với nhau, và lão ấy hay kể tỉ mỉ
mọi chuyện, tôi thề có Chúa là các vị mà nghe chuyện thì cũng phải vỡ tim
đau khổ. Lão ấy muốn quay lại với gia đình nhưng mà vợ lão ấy không biết
có nên cho lão ấy quay lại không. Lúc thì bà ấy bảo ừ, lúc thì lại bảo không.
Lúc đấy lão ấy đang sống trong một cái nhà ổ chuột trên phố Post. Lão ấy
chả có đồ đạc gì ngoài mấy thứ bàn ghế vớ vẩn. Chịu, nói chung tôi thấy
khổ cho lão ấy. Thế là tôi bảo lão ấy chuyển vào sống với bọn tôi cho đến
khi nào mọi việc rõ ràng”.
“Tôi biết ngay mà”, Helen nói.
Mitch nhìn ngọn nến. “Lão ấy tên là Raphael. Nghĩa là thiên thần ấy.
Lão ấy có tài, đẹp trai, nói chung là lão ấy có một cái vẻ gì đó rất đặc biệt.
Chắc tại tôi muốn làm bạn với lão ấy. Nhưng hóa ra lão ấy chả ra chó gì cả.
Lão ấy sống với bọn tôi 9 tháng thì chưa bao giờ lão ấy rửa một cái cốc hay
đi đổ gạt tàn. Lão ấy tiêu tốn mấy trăm đô tiền điện thoại của bọn tôi mà
chẳng trả xu nào. Lại còn làm hỏng xe của tôi. Ăn cắp đồ của tôi nữa. Lão
ấy lại còn tán tỉnh vợ tôi”.
“Kinh điển”, Helen nói.
“Mà có biết tôi làm gì không?”, Mitch nói. “Để tôi kể cho nghe. Chả
làm gì cả. Tôi chả bao giờ nói lão ấy một lời. Đến lúc lão ấy đi, vợ tôi chả
nhìn nổi mặt tôi nữa. Thế là mọi chuyện xuống dốc từ đấy”.
“Chuyện buồn chết đi được”, Helen nói.
“Lẽ ra tôi nên giết chết lão ấy”, Mitch nói. “Sau đấy tôi có thể tiếc
nhưng ít nhất tôi có thể nói tôi đã làm gì đó”.