Từ hôm Pháp đánh ra ngoài đầu ô, đội tự vệ ăn ở lưu động, lúc
nào cũng thiếu ngủ, mệt mỏi, lử lả, không biết thế nào là ngày là
đêm.
Cả vùng trống không không còn gì. Người các làng đã gồng gánh
sang bên kia sông rồi. Bởi vậy, đội tự vệ ở lại xác xơ chẳng còn đến
cả một nắm muối. Vậy mà đi đâu nặng mấy, cũng vẫn chịu khó
khiêng lắc lư cái nồi ba mươi, từng khiêng sổ sách…
Trên những thửa ruộng cải bắp, cải bẹ, cải thìa bỏ hoang, các chị
cứu thương và tiếp tế đi mót từng lá về luộc ăn vã. Có những anh
lấm vùi từ đầu tới chân, xách về một rổ tép xúc ở chuôm với một
xâu chuột đồng vừa hun được.
Tất cả, lố nhố, lếch thếch đuổi theo đám tự vệ quẩy đồ đạc
đi trước.
Đội trưởng Trường quát to:
- Phải… tư cách tự vệ mới được…
Nhưng chẳng ai nghe, họ vẫn chạy. Đội trưởng quát thì quát, chứ
đã đói dài, chẳng thể cấm nổi người đi mò, người đi mót.
Đội trưởng Trường và mấy người nữa chạy sau cùng. Vừa ra khỏi
cánh đồng, đã trông thấy đằng đầu làng bốc khói đen. Tây
đương đốt nhà đằng ấy. Trong chốc lát, khói đã mù mịt cả làng.
Tiếng nổ súng tắc bọp… tắc bọp… lác đác kỳ quái, nổi trên ngọn
tre. Nhiều người đi trên đường cái, kêu: “Việt gian! Việt gian!” Người
ta hốt hoảng đấy là tiếng súng “tắc bọp” của Việt gian bắn báo
hiệu. Ở đâu cũng thấy: đầu bụi tre cũng có tiếng tắc bọp.