ráng” chạy xé nước mà chắc ngoài Phan Rang không có. Bi nói nếu
Bi trông thấy ngoại thì cả Bi với Vồ cùng chạy xuống, trốn đi với
ngoại. Hai đứa cứ ngong ngóng.
Một hôm, quãng mười giờ sáng, có ô tô đậu ngoài cửa đưa Bi và
Vồ ra sân bay. Thứ năm, máy bay đi Pháp rồi đi Mỹ ở Băng Cốc
sang. Thế là chuyến đi xa của hai đứa trẻ bắt đầu. Nhưng mà
không ai nói trước cho chúng biết điều gì. Người ta chỉ sửa soạn
các thức cho chúng nó. Mỗi đứa đeo cái túi in chữ “Hàng không
Pháp” xanh lơ, trong đựng bộ quần áo, một áo len cổ lọ xanh cánh
trả, lại thêm ống thuốc và bàn chải răng - mà chúng nó chưa biết
đánh răng bao giờ.
Hai đứa trẻ cũng chẳng hỏi đi đâu. Mấy lâu nay đã quen thế.
Chỉ thấy được đưa ra khỏi khách sạn, vào ô tô, thì vừa lạ vừa như
hay hay.
Ngồi trên xe, đột nhiên, Vồ hỏi chú lái:
- Chú cho cháu về Phan Rang ăn Tết với ngoại? Hôm nay, hôm
nay ạ?
Chú lái xe quay đầu lại, nụ cười lạnh lẽo và không trả lời. Bi
ngồi im. Bi lơ đãng nhìn nhà và xe vùn vụt qua hai bên đường.
Đến lúc xe vượt cầu sang Phú Nhuận, tự dưng Bi nhắm mắt lại.
Xế trưa, xe trở lại khách sạn. Tôi trông thấy chỉ có mình thằng
Vồ chạy lên buồng. Rồi lại nghe tiếng nó kêu khóc váng lên:
Ngoại! Ngoại ơi!
Hỏi ra mới biết hôm ấy không có máy bay Băng Cốc tới.
Chuyến đi phải hoãn tuần sau. Ô tô chở hai đứa trẻ về đến chỗ