nhà đầu tư mạo hiểm. Tôi đã tham dự hàng trăm buổi gặp gỡ với họ và huy
động hàng triệu đô-la.” Giờ đây ông hứng thú với đòn bẩy mới của mình:
nhà đầu tư muốn cấp vốn cho ông mà không cần phải thuyết phục. Bên cạnh
đó, ông muốn họ ra giá chứ không phải ngược lại. “Travis rất giỏi trong việc
tạo ra nhu cầu,” Chris Sacca, cố vấn đồng thời là nhà đầu tư từ rất sớm của
Uber, nhận xét. “Anh ấy nói, ‘Tôi không muốn nghe anh nói gì cho đến ngày
hẹn. Và vào ngày đó, tôi muốn nghe anh nói về những điều khoản. Sau đó,
tôi sẽ đến gặp anh.’”
Benchmark Capital đã chuẩn bị sẵn sàng những điều khoản cho Kalanick.
Công ty này đã đầu tư thành công vào những “thị trường” Internet như eBay
và OpenTable, và họ xem Uber là khoản đầu tư tiềm năng tiếp theo. “Chúng
tôi luôn cho rằng những ngành kinh doanh khác có thể hưởng lợi từ một
mạng lưới phía trên chúng,” Gurley của quỹ Benchmark nói. “Và khi bắt
đầu thảo luận, ngành vận tải xuất hiện trong suy nghĩ của chúng tôi.”
Benchmark kết luận rằng ngành taxi là một vụ đánh cược tồi vì những
nguyên tắc ngầm, giá cố định, và tính chất sở hữu tập trung. “Chúng tôi thực
sự đưa ra kết luận đó khi thấy một doanh nhân cố gắng thử điều này bằng
những chiếc xe sang trọng thay vì xe taxi, và chúng tôi thấy hứng thú.” Tất
nhiên, Uber nhanh chóng thách thức những “nguyên tắc ngầm” mà Gurley
đã lo ngại. Nhưng ban đầu, Uber chọn thị trường limousine chứ không phải
taxi, và điều này đã thu hút Benchmark.
Kalanick gặp nhiều công ty khác nhau, bao gồm cả Sequoia và Benchmark
trong cùng một ngày. Benchmark đề nghị đầu tư và cử Matt Cohler, một đối
tác ủng hộ nhiệt thành Uber, tham gia hội đồng quản trị. Kalanick muốn
khoản tiền của Benchmark nhưng không muốn tiếp nhận đối tác này. “Matt
Cohler chỉ mới tham gia ngành đầu tư mạo hiểm,” Kalanick nhớ lại. “Ý
tưởng ai đó thử nghiệm phong cách đầu tư mạo hiểm của mình lên bạn
không phải điều tôi thích thú.” Ông muốn Gurley hơn, một nhà phân tích
Phố Wall lớn hơn Kalanick cả chục tuổi và là nhà đầu tư mạo hiểm dạn dày
kinh nghiệm hơn Cohler rất nhiều. Vào tháng Hai năm 2011, Benchmark