Trực là con ghẻ giành lấy mà ăn đã lâu năm, bây giờ danh Tài tưởng rằng
vật qui cố chủ, cũa chủ phải về cho chủ, các lời.
Hỏi ra thân tộc danh Trực, là Trần-văn-Hay, Trần-văn-Nay, đều khai rằng
từ danh Điền làm bạn với thị Thành, thì thường thấy danh Điền lo bồi bổ sở
ruộng cùng chịu thuế cho làng, nghe thị Cẩm giao đứt sở ruộng cho vợ
chồng danh Điền. Còn danh Trực thì thường phụng dưỡng mẹ ghẻ cũng
như mẹ ruột, cho đên khi mẹ ghẻ nó chết rồi, nó cũng giữ nhang khói cúng
cấp theo cha nó, các lời,
Các lẽ trước nầy đã có xét tra.
Tra xấp văn khế ruộng kiện, nguyên trước là của Lê-văn-Thông, mua của
Phạm-văn-Đạc, lưu văn khế bán đoạn mải cho Võ-thị-Cẩm, sau cải chánh
cho Lý-thị-Thành, quả là ruộng riêng Lý-thị-Thành, nguyên chẳng phải là
ruộng tổ phụ lưu lại, cũng chẳng phải là ruộng hương hỏa, tuyệt tự.
Tra ra Trần-văn-Điền đã chết rồi, buổi làm bạn với Lý-thị-Thành, là con
gái cũng đã chết rồi, tuy là chắp nối, mà cũng có cưới hỏi, không phải là
cầu hạp.
Vâng chiếu theo cửu tộc đồ, chỗ phân về tam phụ bát mẩu, Lý-thị-Thành
quả là kế mẩu danh Trực, ấy Vi phụ chi thê, thì là Vi tử chi mẩu. Vã danh
Điền chết cách ba năm, thị Thành lại chết theo, thì cũng là tùng nhứt, trọn
nghĩa vợ chồng, sống thì đồng tịch đồng sàng, thác thì đồng quan đồng
quách.
Vâng tra mặt luật bộ, chỗ nói về việc lập đích tử, trong điều lệ có dạy
phải cứ Chiêu mục tương đương, danh Lý-văn-Tài tuy là cháu ruột thị
Thành, kêu thị Thành bằng cô ruột, về bên họ nội chẻm chẻm, mà ngặt gái
đã có chồng, phải tùng chồng. Lý-văn-Tài chẳng có lẽ thờ cô mà bỏ
giượng.
Vâng nghĩ sở ruộng 10 mẩu ấy phải về Trần-văn-Trực làm chủ, lấy hoa
lợi mà cúng kế mẩu cùng là cúng cha, làm hương hỏa cho Lý-thị-Thành.