chúng tôi biệt lập, đánh dấu cách ly, tránh lây nhiễm sang nhừng người còn
lại, tạo riêng một thứ chuồng hay cũi; chúng tôi cứ thế tuôn vào, tự chia
thành hàng lối, một việc đã rất quen làm, và quỳ xuống ngồi trên sàn xi
măng.
“Lui xuống cuối,” Ofglen rì rầm bên tôi. “Như thế dễ nói chuyện hơn.” Và
trong lúc quỳ, đầu hơi cúi xuống, tôi nghe thấy khắp bốn bề lao xao, như
tiếng côn trùng líu ríu trong cỏ khô cao ngất: giọng thì thầm ken dày. Đây là
một trong những nơi chúng tôi có thể trao đổi tự do, truyền tin tức đi khắp
đám. Họ khó mà chỉ mặt ai trong cả nhóm, hoặc nghe ra nói gì. Hon nữa họ
cũng chẳng muốn ngắt ngang buổi lễ, lại còn trước mắt camera truyền hình.
Ofglen huých vào sườn tôi, đánh động, và tôi nhìn lên, rất chậm và lén lút.
Từ chỗ này nhìn khá rõ lối vào sân, nơi mọi người đang đều đặn dồn về.
Hẳn cô lưu ý Janine, bởi cô ta kìa, cặp đôi người mới, không phải cô trước,
một người tôi chưa thấy bao giờ. Vậy là Janine đã bị chuyển rồi, tới một hộ
mới, một nhiệm sở mới. Quá sớm, hay sữa cô ta bị hỏng sao đó chăng? Đó
là khả năng duy nhất, trừ khi có chuyện tranh giành đứa bé, cũng không
hiếm như người ta tưởng. Một khi đã sinh, cô ta có thể kháng cự không
muốn trao đi. Cái đó tôi hiểu. Thân hình cô dưới làn vải đỏ trông rất gầy,
xác xơ là khác, vầng hào quang thai phụ lúc trước không còn. Mặt cô trắng
bợt và nhọn ra, như sức sống đã bị hút hết.
“Chẳng hay chút gì, cô biết không,” Ofglen nói gần bên tai tôi. “Nó thành
ra là một máy xắt.”
Cô nói tới con của Janine, đứa trẻ đã ghé qua Janine trên đường về nơi
khác. Đứa bé tên Angela. Rốt cuộc vẫn sai lầm, đặt tên nó vội vàng như thế.
Tôi cảm thấy cồn cào, trong ổ bụng. Không phải cồn cào, mà là trống rỗng.
Tôi không muốn biết đã hỏng cái gì. “Chúa ơi,” tôi nói. Trải qua từng ấy
chuyện, rồi trắng tay. Tệ hơn cả trắng tay.
“Là đứa thứ hai rồi đấy,” Ofglen nói. “Không tính đứa con riêng, hồi trước.
Cô ta từng sẩy thai tám tháng, cô không biết ư?”