Việt không dấu, nên lộn ông này ra ông kia - khá hơn một ông Tây
khác, đại tá, cũng vì đọc tiếng Việt không dấu nên cho tiếng Việt là mẹ
cả thế giới (L’annamite, mère des langues). Có một đồng tiền đọc là
Trần công tân bảo hay Trần tân công bảo, được A. Schroeder cho là
của Trần Công Ninh khởi loạn năm 1516, tuy giống ở cái tên nửa
chừng nhưng khó chứng minh được gì vì cuộc loạn Trần Công Ninh
rất nhỏ. Không hiểu vì lẽ gì tiền lại được gán cho Trần Tuân, người
khởi loạn ba năm trước đó! Chắc vì cuộc loạn này lớn nên ĐTĐ không
đồng ý với A. Schroeder mà thuận cho chủ nhân là Trần Tuân, không
kể đến mặt chữ Hán sờ sờ trước mắt. Các gán ghép không cần chứng
minh của D. Lacroix có sai cũng không nói làm gì, có điều đến ngày
nay mà có “học giả” vẫn bám vào mới thật là đáng tiếc.
Sự suy đoán về chủ nhân các mẫu tiền cũng như chuyện ở các nơi
khác, lúc nào cũng phải loại bỏ sự dễ dãi, theo đuôi. Và nhất là, đúng
với tinh thần nghiên cứu, phải căn cứ trên hiện vật. Các cổ tiền gia
Trung Quốc, sưu tập được nhiều, thường hay tìm ra tính cách chung
của một loại tiền Việt, của một thời rồi đối chiếu, tìm ra kết luận. A.
Schroeder đã cẩn thận một chừng mực đáng kể so với thời đại. Không
phải cứ thấy đồng tiền có tên Đại định, Thái hòa... là nhất quyết phải
thuộc về ông vua Việt (hay Trung Quốc) có niên hiệu đó. Sự chiếm
hữu có khi bị thôi thúc mạnh vì “tinh thần dân tộc” dâng cao, ví dụ
như nhất quyết Thiên đức thông bảo là của Lý Bôn/Bí dù rằng vua
Mân đã cầu chứng tiền của mình bằng cách khắc thêm mặt sau một
loại tiền, bằng chữ “Ân” chẳng hạn.
Suy đoán trên hiện vật kèm theo chút nhìn nhận điều kiện lịch sử
cũng có thể giải tỏa nhiều thắc mắc. Năm 1970 gì đó, cầm trên tay
đồng Nguyên hòa chữ triện, chúng tôi thật phân vân. Nguyên Hòa
cũng là niên hiệu của Nhật, của Hán Chương Đế, của Đường Hiến
Tông (bắt đầu 806). Tuy nhiên cổ tiền gia Trung Quốc không giành
tiền về phần mình vì đời Hán chưa dùng chữ thông bảo, Tân Đường
thư không chép việc đúc tiền nên họ thường ghép vào niên hiệu của Lê