Trang Tông (1533-1548). Tiền Lê theo truyền thống bắt đầu từ Minh
đã giản dị đi, không đầy lối thảo triện hoa hòe như của Tống nữa, do
đó đồng Nguyên hòa này có vẻ lạc loài thời đại. Tuy nhiên nhìn các
tiền Tống lưu hành ở Việt Nam đến mức gần như tuyệt đối, phải suy
nghĩ, lối đó sao không ảnh hưởng đến chủ ý của người ra lệnh đúc tiền
muốn chúng tỏ là minh chủ của một thời “trung hưng”, bình nghịch
tặc? Mẫu Nguyên hòa chữ khải giá rất đắt so với mẫu chữ triện, chứng
tỏ nếu tiền đúc cho một người thì khuynh hướng chữ triện đã thắng
thế, nghĩa là lượng tiền đúc nhiều hơn, đúng với chủ ý muốn nổi bật
đã bàn ở trên của người chủ trương. Đồng Ninh dân thông bảo không
chứng tỏ một nhân vật, một niên hiệu mà chỉ có nghĩa của một ước
vọng tốt đẹp, nhưng khi biết được Nguyễn Tuyển, một người từng ở
trong vòng thân cận của vương quyền Trịnh Lê (“khách” của hoạn
quan Hoàng Công Phụ), nổi dậy ở Ninh Xá, dựng cờ “Ninh dân”, xây
dựng sự nghiệp riêng, thì ta có thể đoan chắc đó là tiền của ông này.
Sự mò mẫm đòi hỏi cực nhọc nhưng một chút thành tựu nhỏ nhoi
khiến cho một đồng tiền mù mờ trở nên có danh vị, cũng thật bõ công
tìm tòi...
Ninh dân thông bảo là một trường hợp chứng tỏ tiền đúc có căn
bản là một chứng minh quyền lực hơn là vì nhu cầu lưu thông. Ngay
cả một số lớn tiền niên hiệu cũng vậy. Vì ít chúng mới trở thành hiếm.
Không phải bởi nhu cầu lưu thông cho nên vua đúc tiền ban cho các
quan, cho vợ con cưng, theo một đòi hỏi thỏa mãn riêng tư. Trong đời
Trần, tiền đúc dồi dào dạng hình không phải từ các ông vua anh hùng
đánh giặc, ngâm thơ mà là của ông vua ăn chơi Trần Dụ Tông. Ông
này có hai niên hiệu thì đều có đúc tiền, niên hiệu đầu còn tùy thuộc
ông thượng hoàng Minh Tông nên tiền chỉ có một, hai loại đến khi
thoát ra được kềm tỏa thì niên hiệu Đại Trị sau có đủ thứ kiểu dáng
tiền. Vẫn là không nhiều như ngày nay đã chứng tỏ, nhưng điều đó
cho thấy khả năng tự phô trương hạn hẹp của ông vua gốc con nhà chủ
ruộng, chủ thuyền chài, thu hẹp thành ông vua chủ vườn tỏi bán lấy