lại thay chữ thông bằng chi, chí, thái, đại (thật ra chẳng lớn tí nào)...
Thêm lò đúc trung ương, địa phương phức tạp nên có dấu hiệu mất
kiểm soát của chính quyền, phát sinh loại Cảnh hưng có thứ mang dấu
ngũ thù nửa chừng, dấu hiệu chữ Mãn bắt chước của tiền Thanh...
Không nên lấy làm lạ về điều này vì như Phan Huy Chú cho biết, từ
khi trấn Sơn Tây được phép mở trường đúc tiền (1760) thì các trấn
khác hùa theo, và mở màn cho các khách thương Trung Hoa bao thầu
“giấu giếm gian dối, mưu tính kiếm lợi”. Chữ Mãn Châu ở mặt trái
tiền còn xuất hiện nơi đồng Minh mạng.
Trong các báo cáo khảo cổ, cho đến gần đây không thấy có
những chi tiết kiểm điểm phân biệt tiền Việt, tiền Trung như A.
Schroeder đã làm với mớ tiền ở Quần Ngựa (Hà Nội). “Chuyên viên”
cổ tiền học có lưu ý tới thì đầy giọng ngợi ca dân tộc anh hùng, bình
Nam dẹp Bắc, chiến thắng đế quốc sừng sỏ theo các bài học từ nhà
trường, các luận chứng chính trị một thời vừa qua. Tuy nhiên nhìn
chung thì tiền Việt vẫn là thiểu số trong số lượng lưu hành như chứng
dẫn ở bất cứ nhóm tiền nào đào từ trong đất ra. Vẫn biết trong tình
hình chung nền văn hóa, đồng tiền đồng mang dấu hiệu chung thì việc
sử dụng tiền Trung Hoa không gây thắc mắc ở Việt Nam cũng như ở
Cao Ly, Nhật Bản nhưng số lượng tiền Tống áp đảo ở Việt Nam cũng
là điều đáng lưu ý. Có giải thích cho rằng từ Nguyên, Minh, Trung
Quốc dùng tiền giấy, không đúc tiền đồng (ngay Minh cũng không đúc
đủ tiền niên hiệu nữa) cho nên tiền đồng dồi dào đời Tống phải chạy
ra ngoài. Đại Việt vốn chỉ đúc tiền niên hiệu để tượng trưng tính cách
chính thống cho dân nước nên không có truyền thống đúc tiền cho nhu
cầu sinh hoạt, và dễ dàng tiếp nhận loại tiền từ bên ngoài vào.
Trong tình hình giao thương với Trung Quốc, nhà nước Đại Việt
có cái lợi là thuộc xứ có sản phẩm nhiệt đới như đã chứng tỏ từ xưa.
Cống phẩm của thời phân ly không thể dồi dào như cống phẩm thời
thuộc trị nên các cuộc buôn bán giữa Trung Hoa và Đại Việt độc lập
trở thành như một cuộc trao đổi hàng lấy tiền đồng, một bên lấy hàng