phức tạp như đã thấy. Tiền bùa chính thức cũng nằm trong khuôn thức
tiền tròn, lỗ vuông, tuy đa dạng nhưng không dùng vào việc trao đổi,
lưu thông thế tục. Các chữ Hán trên đó không phải niên hiệu vua mà là
các lời chúc phúc, gia ngữ: Thiên hạ thái bình, Trường mệnh phú quý,
Kim ngọc mãn đường, Gia quan tiến lộc... Có cả một bộ tiền bát tiên
mang các hình Trương Quả Lão, Hán Chung Ly, Lữ Đồng Tân... với
đặc tính thân xác, thái độ ứng xử riêng biệt của từng người, kèm với
hàng chữ trong kinh Đạo giáo, mở đầu đại loại: Thái thượng chú viết...
Vương mẫu chú viết... Đúc tiền tuy phải tổn phí nhiều nhưng các đạo
quán vốn được tín đồ ủng hộ nồng nhiệt nên vẫn có đủ phương tiện để
đúc tiền riêng cho “giáo phái” của mình, như trường hợp các đồng
Vạn kiếp xuất hiện ở miền Bắc Việt Nam có vẻ là từ nhóm phù thủy
xiên lình hằng năm trên đất gốc của người anh hùng chống Nguyên
đang làm tổ sư ở đấy. Tôi từng mua được trên đường phố Hà Nội một
đồng Hiên viên thông bảo, cỡ bình thường như các đồng tiền khác.
Ông F. Thierry thấy nét chữ có dáng tiền Minh nửa sau thế kỷ XVII,
tên tiền xuất hiện trong sách xưa cũng vào thời gian đó. Tôi không
thấy nó trong sưu tập lớn như Cổ tiền đại từ điển của Đinh Phúc Bảo
mà dấu vết tên tiền thì rõ ràng là mang tính chất Đạo giáo nên cũng có
thể cho là xuất phát từ một đạo quán nào ở nước ta (?) trong thời kỳ
điện phủ hưng thịnh.
Có một loại tiền bùa vốn chính là tiền để lưu thông nhưng được
gọi như thế vì có “chữ bùa”. Đó là các đồng tiền nhà Thanh, lớp quý
tộc Mãn Châu cai trị đất Trung Hoa nên đúc tiền chữ Hán lại phải kèm
theo ở mặt sau ghi chữ Mãn dành cho con dân, tổ tông họ, chỉ nơi đúc
kèm theo chữ “bảo” Mãn có nghĩa “tiền”: ví dụ Tuyền bảo (của bộ Hộ
đúc), Nguyên bảo (của bộ Công đúc), Vân (ở Vân Nam đúc), Điền
(Quảng Tây), Trực (Trực Lệ)... Loại tiền “sáu chữ” này cũng gây
thành vấn đề lưu thông ở Việt Nam thời Minh Mạng, có chép trong
Thực lục chính biên. Tiền đúc trên các vùng Trung Á thì có chữ của
các dân tộc nơi ấy. Tất nhiên đối với người dân thường thì đó là những