nước, là phản bội ý chí kiên cường bảo vệ tổ quốc của toàn dân Việt.
Hãy nghe Lê Hoàn đưa lời tranh luận với sứ Tống: “Việc cướp trấn
Như Hồng là do bọn giặc biển ở cõi ngoài, Hoàng đế có biết đó là
không phải của quân Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản
thì đầu tiên đánh vào Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ
dừng ở trấn Như Hồng mà thôi?” Ông quận vương ở châu Giao Chỉ
đòi chiếm đến một phần khá lớn của nhà Tống mới vừa phục hưng,
ông đó yêu đất của mình đâu có thua gì tinh thần yêu nước của người
bây giờ? Thực tế của quyền lực trên vùng đất mà thiên tử không với
tới được đã dựa trên một căn bản pháp lý rõ ràng: ông tiết độ sứ Tĩnh
Hải quân, ông quận vương của châu Giao Chỉ đã lãnh trông coi đất
của hoàng đế thiên triều nên thấy mình có toàn quyền trên đất được
giao. “Quân Giao Châu” là của triều đình có châu Giao nhưng cũng là
của người đương quyền ở châu Giao: Lê Hoàn.
Đại Cồ Việt rồi Đại Việt, hiểu cả từ phía Việt, là tiếp nối phủ Đô
hộ An Nam, chưa kể là Nam Việt của Triệu Đà, là Giao Châu, Giao
Chỉ của Hán và các triều đại Trung Quốc tiếp theo. Cho nên sử quan
Việt cứ nhắc tới Triệu Đà và nước Nam Việt. Trần Quốc Tuấn nhắc
đến Triệu Đà để đem tự tin cho Anh Tông chống Nguyên: “Từ khi
Triệu Vũ mở nước, vua Hán đem quân xuống nam...” Và Nguyễn Trãi
trong “Cáo bình Ngô” đã vẽ ra truyền thống “Từ Triệu, Đinh, Lý,
Trần...” để giành lấy quyền chủ nhân ông của tập đoàn mới vừa chiến
thắng. Điều quan trọng khác theo kiểu “bắt không được, tha làm
phúc”, là phía mạnh cũng mở đường không chối bỏ, coi tính chất pháp
lý đó như là điều kiện ràng buộc vừa phải. Tống sau khi đòi “làm cỏ”,
đòi “dạy lễ” cho đám dân Việt “uống bằng mũi... nói tiếng chim”
không được, liền vỗ về “Phải như Úy Đà cung kính, thuận tòng vâng
chiếu Hán chẳng trái”. Đó là một cam kết công nhận địa vực đi theo
với việc phong chức. Ranh giới của địa vực đó còn co giãn theo với
tham vọng và quyền lực cụ thể của các bên, nhưng thông thường thì
người ta vẫn tôn trọng nó. Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao nổi dậy chỉ