có vua Lý sai quân đánh dẹp, cho đến khi Trí Cao lấn trên vùng chủ
quyền của Tống mới thấy Địch Thanh ra tay. Đất Quảng Nguyên giàu
vàng mà nhà Tống chiếm trong chuyến Quách Quỳ ra quân (1076) sau
trả về Việt không phải vì nhà Tống “tham Giao Chỉ tượng” nhưng
chính vì Lý dựa trên một căn bản pháp lý: đất đó của họ Nùng, nghĩa
là thuộc phần của Lý! Chúng ta còn có thể kể những sự kiện lặt vặt
khác như việc các cá nhân, tập đoàn của bên này chạy qua bên kia liền
được trao trả cho chủ vùng đất...
Tính chất “ủy nhiệm” đó vẫn không mất đi khi Quận trở thành
Quốc. Quyền của thiên tử lớn thu hẹp lại nhưng vẫn còn có lý do để
can thiệp nơi đất xa, dựa trên nền triết lý chính trị ban phát từ trung
ương: thuyết vương hóa được Nho giáo bồi đắp. Tờ trình của Lê
Thánh Tông có nhắc lại lời dụ của vua Minh: “Nước của vương cùng
nước Chiêm Thành thế lực lớn nhỏ không đợi phải nói, nếu trước kia
(Chiêm Thành) sinh sự ấy là không biết đo đức lượng tài, vẫn là việc
bất nghĩa, nhưng nếu vương lại nhân họ nhỏ yếu mà tức giận đem
quân uy hiếp kẻ yếu hèn cô đơn, thì có gọi là nghĩa được không? Sắc
cho vương nên bỏ điều lỗi nhỏ mà tỏ cái nghĩa lớn, đem hết số người
đã bắt trả lại cho nước Chiêm và nghiêm cấm quan lại giữ biên giới
không được sinh sự cầu công, động binh gây oán để đến nỗi nghiêng
đổ mà tự chuốc lo ngại”. Lời đe dọa không che giấu nên Lê Thánh
Tông tỏ ra hiểu biết vị trí của mình: “Thần từ được phong đến nay
đêm ngày kính sợ, thường lo giữ gìn đất đai và nhân dân của triều
đình, đâu dám lấy của không phải làm của mình, trái lời bội nghĩa,
chuốc lấy quở trách. Thần dù ngu si đến đâu cũng biết họa phúc... đâu
dám đem lòng thôn tính, mà vẫn thương kẻ lưu ly thất sở, gia ơn vỗ về
khiến họ trên dưới yên lành, cùng ở trong vòng hòa vui thịnh trị, mà
quân dân nước thần được nghỉ ngơi mãi mãi, không phải lo việc binh
đao”. Vấn đề bàn ở đây là sự minh định chủ quyền của Đại Việt, một
thứ chủ quyền bị cắt xén nhưng vẫn là riêng biệt của một nước. Sự
vòng vèo quanh chữ “nghĩa” của hai bên là một xác nhận đồng văn