hàng Thanh!) mà Trịnh Tráng ngươi dâng biểu nộp cống, từ mùa xuân
đến mùa thu vất vả theo gót... Tuy có nhiều kẻ chê gièm, trẫm cũng
không có lòng ngờ vực... tấn phong ngươi làm An Nam phó quốc
vương” (Phan Huy Chú, Lịch triều..., Bang giao chí, tập III, tr. 210-
211). Rõ ràng họ Trịnh đã chuẩn bị bước lên địa vị tối cao nhưng tình
hình bên trong, cả ở nội bộ, không cho phép nên phải chịu phận phó
cho đến khi tàn cuộc tang thương.
Thật ra thì tương quan giao tiếp biên giới Việt-Trung chỉ khá rành
rẽ ở về phía đông bắc. Đó là đường xâm lăng cổ điển qua trũng Lạng
Sơn, chưa kể đường biển với ông phù thủy Cao Biền sai sấm sét đào
kinh. Ngay cả ở đây, địa vực mà thiên tử Hán trao cho vua Việt vẫn
còn có cả một vùng đệm của các tập đoàn thiểu số nắm quyền cai trị
mà chính sách “ky my” ngầm hiểu là sự bất lực một chừng mực của
trung ương, vẫn còn đeo đẳng khi chuyển qua Việt. Trên biên giới
đông bắc, nhà Lý phải kết thân gia với các tù trưởng trên các vùng bên
rìa khu vực đồng bằng ngày nay, như họ Thân của “động” Giáp chắn
đường ải Chi Lăng nổi danh trong lịch sử. Xa hơn, họ Nùng ở một
vùng Quảng Nguyên còn đầy đủ thực lực để tự quản, nếu không mưu
tính bành trướng thành lập nước riêng thì hẳn không bị diệt. Khi quân
Nguyên xâm lấn thì phụ họa với Trần đã có những tù trưởng đánh với
thực lực riêng của mình. Với thời gian lâu dài, khi thế lực Thăng Long
bành trướng, ta thấy có hiện tượng thổ tù hóa và trung châu hóa của
lớp người đồng bằng và miền núi trong vùng. Qua tranh chấp cuối
Trần, nhờ ở vị thế đứng về phe chính thống (âm mưu giết Lê Quý Ly,
1399) nên sử gia ghi rõ một người là Lương Nguyên Bưu có tiên tổ là
phụ đạo triều Lý với tước vương, con cháu từng tham gia đánh
Nguyên, đến đời Bưu thì với hành động kia rõ ràng không còn là thổ
tù nữa mà đã trung châu hóa hoàn toàn.
Phía tây bắc thì phức tạp hơn. Lưu vực sông Hồng có các dòng
chảy theo hướng tây bắc - đông nam không thấy dấu vết quân binh
Bắc di chuyển vào thời xa xưa. Các nước Điền, Dạ Lang và sau này,