hóa, nghĩa là nước nhỏ tự nhận vẫn có giá trị riêng của mình, giá trị
mà nước lớn đã đưa ra làm tiêu chuẩn xử trí, do đó phải nhìn nước nhỏ
như một thành phần xứng đáng đứng trong trời đất, dù đó là cùng
khung trời “thiên hạ” của quan niệm Trung Quốc. Từ đó đi đến vấn đề
cụ thể là sự phong tước với những quyền hạn mà Lê Thánh Tông,
bằng những lời nhẫn nhục, đã biện minh cho vai trò của mình: đánh
“kẻ bất nghĩa” (vậy là đang theo “nghĩa”) chỉ vì muốn lo cho dân nước
“được yên nghỉ mãi mãi” vốn là trong nhiệm vụ “giữ gìn đất đai và
nhân dân của triều đình”.
Tính chất phiên thuộc mang lại thất thế cho Đại Việt. Cứ mỗi lần
có đổi thay triều đại thì bị hành hạ khổ sở: hoặc bị xâm chiếm, hoặc
chủ nước bị hạ giá, đang quốc vương trở thành đô thống sứ (Mạc, Lê
một thời gian). Cơ sở pháp lý từ phía Trung Quốc là hoàng đế chỉ
phong cho một người, một dòng họ, không thể ngang nhiên cướp đoạt
dù là vì những biến động nội bộ. Trần Cảo chỉ là bù nhìn nhưng được
phong là An Nam quốc vương vì nối nghiệp cha ông, còn Lê Lợi khi
chưa tìm được con cháu họ Trần thì chỉ là “Quyền thự An Nam quốc
sự” thôi.
Tuy nhiên từ khi được nhận là “quốc” thì chủ quyền cũng cao
thêm một bực. Mạc cắt đất cầu phong “chuộc tội” không nghĩ là đất
của người khác, của quyền lực khác, còn Minh nhận mà không thấy nó
vốn là “đất đai và nhân dân của triều đình (ta)” nên mới có quà trao
đổi là chức đô thống sứ! Ông thiên tử lớn khi thất thế cũng biết nhún
nhường làm lợi cho phía phiên thần đối với dân chúng riêng. Không rõ
tờ chiếu của Tống Hiếu Tông phong quốc vương cho Anh Tông Việt
như thế nào, nhưng Minh Vĩnh Lịch khi bị Thanh rượt đuổi lại được
Lê vượt biển xin phong (đường bộ bị tắc) thì có lời tuy vẫn bề trên
nhưng sự nhường quyền tỏ lộ thật rõ (1647): “(Hãy) làm vua nước
ngươi, chăn nuôi dân ngươi”. Chẳng trách Trịnh Tráng cũng nhân dịp
đó kiếm lợi cho mình. Tờ chiếu phong An Nam phó quốc vương thật
là thảm hại (1651): “Những người theo quân lần lượt đi cả (trốn, đầu