xa gần đến Việt Nam trong quá khứ cũng như bây giờ. Bởi vì sự phát
triển của các nhóm Thiên Chúa giáo Hoa Kỳ trên vùng thiểu số của
Việt Nam ngày nay không phải không có sự tương hợp khi các giáo sĩ
mang “Tin Lành” đến cho các nhóm người vốn có sẵn tin tưởng thần
quyền về một bậc tiên tri sắp xuất hiện đâu đó (ví dụ với nhóm người
Mèo/H’Mông).
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng thành lập Viện Dân
tộc học để nghiên cứu các thành phần “dân tộc ít người” trên đất nước
mình theo tiêu chuẩn để họ “tự chọn” với kết quả 36 danh mục năm
1973, riêng cho phía bắc (Thừa Thiên ngược lên). Chúng tôi chỉ có tài
liệu in năm 1978 (Các dân tôc ít người ở Việt Nam - Các tỉnh phía
bắc) nhưng quyển sách cũng đánh dấu sự suy nghĩ của một thời đại để
bù vào sự thiếu sót của bằng chứng mới hơn. Ích lợi thực tiễn từ sự
quan tâm của nhà nước đối với các dân tộc thiểu số, là họ đã tập hợp
được những người thuộc các thành phần bên lề tộc người Việt đa số
vào cuộc chiến đấu chung trong thời gian vừa qua. Vì thế họ cố ca
tụng mà tránh những động chạm, tương tự như người Trung Quốc né
các từ cũ mang ý nghĩa miệt thị (không dùng chữ “Man” vốn đi theo
bộ “trùng”, “Dao” xưa với bộ “khuyển” nay kèm bộ “vương”, “Di”
với nghĩa “rợ, mọi” nay chuyển sang dùng chữ có nghĩa “vật dụng
cúng tế” trang trọng hơn...) Một nhóm thiểu số đông nhất (800.000
người năm 1973) trong toàn tập hợp phía bắc, rải rác tràn khắp vùng
đông bắc, bắc lan qua tây bắc của Việt Nam, đến thời Pháp thuộc còn
được gọi là Thổ, nay đã đổi thành Tày. Theo chúng tôi đó chỉ là sự
tránh né vì sai lạc ngôn ngữ chứ tộc người này (134.000 người ở
Trung Quốc) có âm “tho”, với chữ Hán Việt phải đọc là “thỏa”, không
có nghĩa gì thấp kém của chữ “thổ” (dân) cả. Lại cũng như Trung
Quốc, những năm sau chống Pháp thành công, người ta cũng tổ chức
các khu tự trị cho người Thái, Mèo, Tày, Nùng nhưng bản in 1978 chỉ
nhắc qua đến các tập hợp Khu tự trị mà thôi. Các dân tộc thiểu số chỉ
có ích cho trung ương khi cần thiết nhưng, nhất là khi có mầm mống