ra lâu bền nên quyền bính ở các địa phương nhỏ này khá vững chắc,
chúng tỏ là khi Lý suy yếu, một “ấp” (không nhỏ như ta tưởng về một
ấp bây giờ) cũng tham gia vào biến cố quấy đảo (Đà Mỗ 1203, Châu
Đình đem ấp của ông phụ vào Nguyễn Nộn 1215, Đỗ Ất làm phản ở
đất Cảo 1215... theo vài chứng dẫn của Đại Việt sử lược). Những họ
Mạc dù có khi chỉ được gọi là “tiểu thủ lãnh” nhưng cũng được nổi bật
vì chống đối, hay được cho là bộ phận của Lý như trường hợp dòng họ
có ông Mạc Hiển Tích cũng chỉ đỗ trong khoa thi (1086) chọn được
mỗi một mình ông (như Lê Văn Thịnh!) rồi được cho là đã ve bà thái
hậu mà không ai dám xử. Và ở đây nổi bật thêm quyền lực của các họ
ngoại, nhất là họ Đỗ trong đời Lý. Chúng ta có thể hiểu tại sao Ngô Sĩ
Liên phải tóm gọn thời kỳ Lý chuyển qua Trần vốn được nói rất dài,
rất chi tiết trong ĐVSL. Những biến động trong sách này được ghi
từng địa danh với thật nhiều “ấp” nhưng không cho thấy chúng liên hệ
đến một hệ thống hành chính nào lớn hơn cả để có thể định vị trí cho
chúng. Vùng lớn chỉ có những từ mơ hồ “châu Lạng”, “châu Đằng”,
“đất Hồng”, đã hiện diện ngay ở triều trước. Thế thì Ngô Sĩ Liên khi
“hiệu chính, biên soạn lại” Đại Việt sử ký có cách nào khác hơn việc
lược bỏ sách cũ thật nhiều?
“Hương, ấp” là danh từ chỉ các vùng chịu ảnh hưởng nền hành
chính thuộc địa hay tiếp tục, của Lý Trần, điều đó cho ta thấy trên
vùng trung châu có phần trực tiếp nằm dưới quyền vua Lý Trần, và
vùng gián tiếp của các hoàng đế cai trị qua tay các thủ lãnh thế tập.
Bên ngoài các vùng đó, người ta sử dụng các từ cũng của quan lại Hán
đã dùng, có chút tóm gọn hơn. Có vẻ “di”, “phiên” chỉ dùng cho người
Chàm: Phiên là của người Hán chỉ rợ phía tây, Di là rợ phía đông: có
phải vì một lúc nào đó người ta nhận ra rằng đến Chiêm Thành cũng
có thể bằng đường biển, nghĩa là đi về phía đông? Còn những người
quanh Thăng Long thì tóm gọn ở từ Man, Lão, có khi chi li hơn, với
Sơn Lão. Ranh giới giữa người Man Di và người Kinh Lộ (chữ của
Ngô Sĩ Liên) một lần được Lý Thái Tông phân định. Năm 1047, ông