khác của việc trả về quê hương bản quán! Châu Lạng có họ Thân được
gả công chúa nhiều lần (1029, 1066, 1167). Châu Vị Long là thành
phần tiền phong của Nam Chiếu trên đường tràn xuống đồng bằng thì
thủ lãnh bị bắt giết (Hà Trác Tuấn 1012, 1015) nhưng rồi được gả
công chúa (Khâm Thánh, 1082) như thế trở lại thành châu. Châu
Phong khá đặc biệt: đất của Ngự Man Vương Lê Đinh của Tiền Lê tuy
thấy có chuyện Phật Mã (Thái Tông) đánh (1024) nhưng còn con cháu
tiếp tục cai trị tập đoàn thiểu số ở đó, và được gả công chúa (Kim
Thành 1036). Cũng một người họ Lê dòng đó làm châu mục Chân
Đăng trong vùng (1096), cưới công chúa Ngọc Kiều (chuyện nhắc lại,
năm 1113), gả người cho Lý Thần Tông (chuyện ở bia Phụng Thánh)
như một việc trao đổi. Có điều vật đổi sao dời, Chân Đăng lại thuộc về
họ Hà, chống Lý nên bị bắt (1193). ĐVSL chỉ ghi trống trơn: “Thủ
lãnh Chân Đăng Hà Lê phản, bị bắt”, sự việc như thể là người ở Vị
Long thuộc dân thiểu số khác, đã tràn sang chiếm quyền tập đoàn thân
thuộc của Lý, đe dọa quyền lực Thăng Long. Ở phía này, nối tiếp từ
Nghệ An, còn có các tập đoàn thiểu số phía nam trong quân dân
Chiêm Thành bị bắt làm tù binh dưới thời Thái Tông, Thánh Tông.
Cho nên việc Thái Tông “đày” sứ Chiêm lên đây (1047) thật ra chỉ là
cách đẩy người về bộ tộc quen thuộc mà thôi.
Châu Phong có Ngự Man Vương nhưng năm 1000, Lê Hoàn còn
đi đánh dẹp dân làm phản chạy trốn vào núi Tản Viên. Trên đất này,
Lĩnh Nam chích quái cuối Trần còn nhớ có người Man Áo Trắng (Thái
Trắng) “gác cây kết cỏ mà ở” (nhà sàn!) tuy đã “biết cày ruộng, dệt
vải”. Chuyện kể kéo dài đến tận hồ Tây với nơi gọi là Hồ Thôn, nơi họ
Lý đã lập đền thờ cho ông Thánh Gióng chưa thành dạng người anh
hùng cứu nước. Đến năm 1207, dân Man Tản Viên còn kéo xuống gần
kinh thành, “bè lũ rất đông”.
Tương quan giao tiếp của họ Lý với các tập đoàn phía tây kinh đô
khiến cho ông thần sông Sở Bộ Đầu thành người mang họ Lý: Lý
Phục Man. Năm 1218, Trần Tự Khánh đánh người Man ở Chương