Mỹ, Hà Tây bây giờ. Chuyện của ĐVSL chép các năm 1184, 1185
được người chú thích bản dịch Toàn thư cho là xảy ra trong vùng Hà
Sơn Bình, thuộc các nhóm Mường ngày nay, vì có kể ra một quan
lang: “bọn” Đinh Võ, nêu danh một tập đoàn bằng tên lãnh tụ, nhưng
địa vực “thôn Đỗ Gia” lại chứng tỏ không khác Kinh Lộ nhiều. Ta gặp
được một chỉ danh man khác: Lão, Sơn Lão. Đơn vị cư dân ở đây là
sách, là trại như tên ở động Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh. Nhà Đinh mất
nghiệp, con cháu, dân chúng cũ bị hành hạ, xây thành trì tuy không bị
gọi thẳng là man nhưng dấu vết gần man đã rất rõ. Từ 1005, nhóm
Man Cử Long, có dấu vết tộc Thái, từ phía tây Thanh Hóa đã tràn
xuống cửa Thần Đầu, nghĩa là ở thế uy hiếp Hoa Lư. Sử gia ngày nay
thấy vùng phát xuất thuộc đất người Mường bây giờ nên xác định là
“Mường” mà có vẻ không chú ý sự khác biệt về thời gian.
Ngay trong vùng sông Đại Hoàng, địa điểm sau này thường nhắc
về chuyện con cháu họ Đinh, trên vùng này năm 1157 có nhóm Sơn
Lão Nông (Nùng?) Khả Lai nổi dậy khiến Lý Anh Tông phải thân
chinh. Cuộc chiến thường xảy ra giữa giáp ranh Hoa Lư và rìa nam
đồng bằng. Ví dụ năm 1211, Trần Tự Khánh đánh ấp Ma La, thua rồi
thắng, chiếm núi Đọi (Hà Nam, vùng Lê Hoàn cày ruộng trước), khiến
người cầm đầu là Đinh Cảm phải chạy vào vùng Sơn Lão. Còn trong
trận chiến 1205 với con cháu Đinh Tiên Hoàng thì có chuyện người
Man Lão tên Quan Sạn đánh Ứng Phong, trại ruộng của Nhân Tông
ngày trước, cũng trong vùng. Năm 1218 có người Sơn Lão tên Bạch
Lăng đã có chức Minh tự rồi còn được phong làm Liệt hầu, chức
ngang với một lần Lý phong cho Trần Tự Khánh. Như thế có thể nói
tộc người từ Hoa Lư ở phía nam lên tây bắc, phía tây Đại La/Thăng
Long có gần gũi huyết thống, phần lớn đều mang họ Đinh, luôn luôn
có xung đột với Lý từ khi Hoa Lư thất thế, trong đó nhóm được gọi
Sơn Lão là tập hợp phản kháng mạnh nhất (trận đánh 1184 giết thái
phó “đàn bà” Vương Nhân Tử và trận trả thù năm sau của vương tước
Lý, có tướng suýt bị đứt cu). Ở vùng phía tây, tây bắc kinh thành,