quyền thì thần nguy mất!” Với các tập hợp sắc tộc khác trong vùng thì
có Lộ Văn Luật gièm pha Lê Lợi với Ai Lao, có Phan Liêu chịu quy
phục mà cũng không thoát chết hồi sau. Các thổ hào họ Cầm trong
vùng dính dáng với các địa danh (Kham/Cam Môn, Cam Cát...) có
Cầm Bành giữ phủ Trà Lân cho Minh, đầu hàng mà được Lê Lợi
buông tha lúc đầu hẳn vì thế lực riêng trong vùng. Có Cầm Quý của
châu Ngọc Ma, hợp tác với Lê Lợi (1420), nuôi Trần Cảo, chắc không
phải là thương người thất thế mà vì mưu tính riêng, khiến cho Cảo về
Đông Đô, khi thấy nguy đến tính mạng lại muốn trở về chốn nương
thân cũ. Cuộc xung đột lớn với chúa Ai Lao, Lan Kham Deng (cầm
quyền 1416-1428), được Toàn thư vẽ ra như một sự phản bội bởi vì
cho rằng họ từng giúp Lê Lợi lúc khởi đầu (1419) mà không thấy đó
chỉ là họ làm việc dùng người ngăn chặn thế lực Minh. Cho đến lúc
thấy Minh còn xa mà quân Lam Sơn lớn mạnh lại gần sát nách (tin tức
do Lộ Văn Luật cung cấp?), họ phải tự lực ra tay (1421) và tiếp theo,
hợp tác với Minh(1422) để tiêu diệt nguy cơ trước mắt. Mưu tính của
họ không thành công, Lê thắng Minh dù đem toàn bộ lực lượng về tận
Đông Đô xa xôi, nhưng đất căn bản Lam Sơn (trở thành Lam Kinh)
với những cuộc hành quân trong quá khứ trên vùng núi rừng xa lạ, đã
trở thành mối đe dọa thực sự cho các tập đoàn Thái cũ, mới muốn yên
thân hay đang trên đà nống ra.
Sự thiệt thòi trước tiên đến với các tập hợp vùng bắc, tây bắc
Đông Đô khi Lê muốn củng cố quyền hành trên đất mới, lo thu dọn
triều Trần cũ. Trần Cảo làm vua hờ cho Minh lấy thể diện rút quân, đã
bị giết (1-1428) thì tới lượt những người họ Trần có danh vọng sờ sờ
trước mắt phải lo toan. Khôn ngoan hơn, khi thấy Lê có mòi thắng thế
(cuối 1427), viên Phán đại lý chính (coi việc hình ngục) họ Trần “tâu
với vua là vì tính ngông cuồng nhiều bệnh, xin được xuất gia”. Sử
thần “không rõ tên” (?) nhưng đã nhận “vua muốn đền công lao” thì
hẳn Trần không phải là thứ vô tích sự; và người kia “vội cắt tóc” hẳn
là thấy tình hình nguy cấp, cho nên sau đó “không biết đi đâu”. Biệt