tây” là điều Lê Lợi đã thấy. Nhóm Lê Sát thuộc lớp người xuất hiện
ngay từ lúc đầu, có Lê Sát cứ đòi giết người, Lê Ngân trả thù vặt từ
hồi “tiền khởi nghĩa”, có Lê Ê “không biết một chữ”... đó là nhóm
Mường thân cận của Lê Lợi. Nhóm chống đối là Lưu Nhân Chú gốc
phía bắc Đông Đô tham gia đơn lẻ nên yếu thế, bị giết trước nhưng
Trịnh Khả nhóm Thái còn thế lực từ chính nơi khởi nghĩa, bền dai hơn
nên đủ sức chống lại. Sự thành công còn nhờ ở nhóm văn quan trung
châu, như đã nói, tuy không có thế lực quân sự nhưng có lý thuyết trị
nước, đem nhồi nhét ý thức quyền tuyệt đối của bậc chủ tể vào óc ông
vua trẻ để hạ tể tướng Lê Sát, người hành xử theo cung cách những
ngày cũ: “Khép cho thần tội chuyên quyền, ấy là tội của thần do tiên
đế mà có cả”.
Xung đột của văn quan trung châu với nhóm “trí thức” Lam Sơn
thấy trong nhiều lần tranh cãi về cách thức điều hành đất nước. Hạn
hán đã lâu, người ta chỉ “rước Phật (Pháp Vân - cái cục đá của Hồ Quý
Ly để lại) đọc chú để cầu mưa”. Nguyễn Thiên Hựu không biết đến
chuyện ông vua mở nước đã quy y từ ngày còn trong rừng, nên lấy
kinh sách ra can ông vua con: “Bệ hạ sửa đức, tha tù oan, thả bớt cung
nữ mà trời không mưa thì xin chém đầu thần...” Có chút mưa nhỏ sau
đó, bị Lê Sát hù dọa, hẳn ông quan văn ăn không ngon ngủ không yên
một thời gian dài (tháng 4-1434). Ba năm sau lại xảy ra chuyện tranh
chấp về lễ nhạc giữa Lương Đăng và nhóm Nguyễn Trãi, dẫn đến cái
chết hụt của tham nghị Nguyễn Liễu dám cả gan bài bác hoạn quan,
dù lúc này Lê Sát đã bị giết. Thế rồi Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục bị hạ
tiếp chỉ vì biết chuyện kín trong cung, dù sao cũng là của riêng nhóm
Mường làm vua: “Diên Ninh (Nhân Tông) tự biết mình không phải là
con của tiên đế...”
Sự hiểu biết về “cách làm vua” của nhóm này phải có thời gian
để thâm nhập. Các tờ chiếu thăng giáng của Nguyễn Trãi viết cho Lê
Thái Tổ, các lời “can gián” của văn quan Đông Đô cho Thái Tông,
Nhân Tông, các lời khích bác tố cáo lẫn nhau của tập đoàn lên xuống