Thái Tông phải truất mẹ, phế con. Sự phân hóa bên trong khiến Nghi
Dân đủ người để làm việc giết thái hậu và vua. Và có người họ Trần
chen vào biến cố.
Hình như có sự bất nhất của sử quan trong việc ghi các tên người
Trần/Trình này. Chưa có lệnh đổi họ thì đã có Trình Chân (1434) chắc
là Trần Chân, lệnh đưa ra rồi (1435), và cả khi các lệnh tiếp theo sau
này của Lê Thánh Tông (1461, 1466) xuất hiện, vẫn có các tên Trần
Hiển (1437), Trần Bàn (1465), nhưng có thể nghĩ rằng Toàn thư vốn là
của nhiều đời nên sự sơ hở vẫn có thể xảy ra, chưa kể trường hợp có
những người quá thân cận với vua như Trần Phong của Thánh Tông.
Nhưng phần lớn có vẻ sử quan đã tuân thủ nghiêm nhặt. Họ Trình
hiếm hoi trong các trang sử trước đó, lại nổi lên rất nhiều vào thời Lê
sơ, với một loạt quan xử kiện (1448, 1449), nổi bật là công việc đi sứ
qua Minh, rõ ràng là cần người văn học mà triều mới chưa có: Trình
Nguyên Hy (1435), Trình Chân (1434, 1446, 1451, trong chuyến rắc
rối ở biên giới 1456). Trong chuyến sứ đi đòi người bị Chiêm Thành
bắt (1449) có tên Trình Nguyên Đỉnh, rõ ràng đó là Trần Nguyên Đỉnh
theo dòng tên người quen thuộc vào cuối Trần. Tất cả minh chứng một
tập hợp họ Trần cũ, qua biến nạn xảy ra với những người đồng tộc,
chịu vào khuôn phép, đã có mặt trong triều mới, và nhân thấy có cơ
hội cũng muốn ngoi thêm lên với toan tính riêng. Trong cuộc đảo
chính của Nghi Dân, sử quan kê ra một dọc Phạm Đồn, Phan Bang,
Trần Lăng (Trung hưng ký thêm Ngô Trang) nhưng đến khi lập bảng
ghi công phản đảo chính thì được kể: “Xướng nghĩa trước và hạ thủ
đầu tiên là Lê Nhân Thuận, đã chém giặc (Trần) Lăng (bè đảng có đến
cả trăm người!)” Tên Lê Nhân Thuận trước đó không thấy có trong
nhóm chủ trương, mà được kể công đầu, vậy lý do công tích là ở bản
thân người ông ta giết kia. Và Trần Lăng không đổi làm Trình Lăng
chỉ vì sử quan muốn nêu đích xác nguồn gốc. Cho nên lên ngôi xong
là Thánh Tông nhắc lại lệnh kỵ húy, hai lần.