Ông Quốc Tuấn này đã chứng tỏ bản lĩnh của mình, hơn cậu em
“tiêu cực, chủ bại”, chỉ lo trốn đi mà không biết tấn công vào kẻ thù.
Ông lựa lúc người ta phô trương việc gả con gái, trưởng công chúa
đấy! trong “hội lớn bảy ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc và nhiều
trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem”, mới dàn trò cướp
con gái, để làm bỉ mặt kẻ thù của gia đình, đang làm chủ nước. Xông
vào ngay nhà tình địch, êm thấm, chủ nhân không hay biết. Chỉ là ăn
vụng, nhà chồng cô gái không hay biết thì cứ đánh nhanh rút nhanh,
việc gì phải làm toáng lên? Ấy là vì muốn mục đích chiếm người được
công khai hóa, tạo gấp gáp “thành tích” dâng cha già, vì hai tháng sau
thì Trần Liễu chết (tháng 4âl. 1251). Vậy là mới mười chín tuổi, trên
một chiến trường nhỏ, Quốc Tuấn đã chứng tỏ được khả năng của
mình. Thái Tông, lúc bấy giờ đã nắm thực quyền, chỉ còn cách điều
chính lại lỗi lầm mình không gây ra nhưng phải gánh vác. Ông làm dịu
sự kiêu căng của kẻ thắng, chịu gả con cho Quốc Tuấn, nghĩa là đem
trả một người bù lại một người đã mất đi của gia đình kia. Phía khác,
ông đền cho người mất vợ cũng thật xứng đáng vì đã đem ruộng đất
cấp cho người mới bỏ sông nước lên bờ. Thái Tông cũng là một người
như thế nên mới ký nhường ngay một lúc hai ngàn khoảnh ruộng -
không hẳn 200.000 mẫu như từ quy định của chữ “khoảnh” (Hán Việt
tự điển Thiều Chửu) mà chỉ là một lối nói phóng tay, nhưng chắc
không ít. Vậy là ông không thấy tiếc hùi hụi như ông điền chủ Lý
Nhân Tông bám của ngay cả lúc hấp hối. Vả lại ruộng Vĩnh Hưng đó
cũng là của cướp đoạt (từ Lý) thôi!
Vẫn còn nhiều lắm, vì mấy năm sau (1254), trước sự đe dọa của
quân Mông Cổ sát biên giới, ông đã đem “quan điền” ra bán, 5 quan
một mẫu (tạm xác định theo đơn vị diện tích thông thường). Đó là giá
tô thuế của lãnh chúa nhỏ nạp cho vua Lý (3 thăng) trong 5 năm, cũng
là giá của 15 thăng gạo, giá mua 5 nô tỳ trong năm đói 1290. Quan
điền thường được dịch là “ruộng công” theo nghĩa “ruộng của công xã
(?!)” nhưng chính là ruộng tư của ông (như giải thích năm 1277 về