nhiều phen phân trần, minh chứng để sử quan phải ghi tóm tắt: “còn
nhiều việc đại loại như thế”. Nỗi tức giận ấy vang vang chuyển qua lời
mắng mỏ tướng sĩ đầy tớ: “Các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không
biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn...” Nỗi tức giận ấy làm
nên một vị anh hùng cứu nước, một Đức Thánh Trần, một ông thần trị
bệnh tà Phạm Nhan, con “tà” ấy đi vào đất Chiêm Thành cũ, phối hợp
với thần tại chỗ thành một cặp “các đẳng Nhang, Giàng” phù trợ/đe
dọa người dân. Uy tín lớn nấp sau chiến công cứu nước, công tích làm
thần nên ẩn nhẫn qua được thời thanh giáo xã hội chủ nghĩa, để ngày
nay ở đền Vạn Kiếp người ta lại hăm hở cúng tế, nhảy múa cầu đảo,
rước xách xiên lình.
Chuyện thắng Nguyên thì có người cho rằng ca tụng mấy cũng
chưa thấy chán. Sử quan khi kín đáo “bôi xấu” anh hùng dân tộc cũng
để cho công cứu nước của ông vượt lên trên tính chất phe phía, xứ sở:
“Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi là An Nam Hưng Đạo
Vương mà không dám gọi tên”. Nhưng họ cũng thấy là nên ca tụng có
chừng mực khi thuật lại lời trối, lúc ốm đau của ông danh tướng. Quân
Mông Cổ không phải chỉ chịu thua ở Đại Việt mà đã thua ở mọi vùng
biên quyền lực của họ, như tất cả những thế lực thống trị ở thế gian
này từng gặp phải. Họ thua ở Nhật Bản, Java - nếu cho rằng bão tố,
biển cả là yếu tố cản trở quyết định ngoài dự tính, để phải lưu ý đến
khả năng thật sự của phía thắng như ở Đại Việt, thì ở nơi này cũng có
thể nêu yếu tố thiên thời (hiểu theo nghĩa bình dân: nắng nóng dịch
tả!), địa lợi (quân Nguyên quen với “trường trận” không thể làm
chuyện “tiến chậm như cách tằm ăn”) như Quốc Tuấn nhận định từ
trên giường bệnh. Ông chắc không biết chuyện Mông Cổ bị chận ở
Trung Âu như những toán quân “Hun” tiếp theo. Ngay chuyện lịch sử
trong nước mà ông cũng còn nhớ lộn xộn (như khi kể về “thời Triệu
Vũ dựng nước” lẫn lộn với toán quân Lý Thường Kiệt) nhưng khi ông
bàn chuyện trong đời, nhớ lại những biến động đã trải qua, có thêm sự
bình tĩnh của tuổi già thì nhận xét thật chừng mực, về quân thù có sự