II
“NHÀ TA: NGƯỜI MIỀN DƯỚI”
Đ
ó là lời Trần Nhân Tông năm 1299, khi ông bảo xăm hình rồng
cho Anh Tông để khỏi quên truyền thống nhưng Anh Tông trốn mất,
từ đó các vua Trần không xăm hình rồng nơi đùi nữa. Danh nghĩa dân
chài đã mất từ lâu khi Trần nắm quyền trị nước nhưng đây mới là dấu
hiệu đoạn tuyệt hẳn với quá khứ dân dã của dòng họ này.
Nhóm Trần (thay thế Lý 1226) này, “đời đời làm nghề đánh cá”
nên dù có làm vua yên ổn, sắp xếp thứ bực tôn thất (1267), sai phủ
Tông chính soạn ngọc phả của họ nhà vua (1304) thì cũng chỉ biết
không quá 5 đời, ngay trên đất Đại Việt, là ở “hương Tức Mặc, phủ
Thiên Trường”, tỉnh Nam Định ngày nay. Ký ức xa hơn thì chỉ còn lờ
mờ: “Tổ tiên là người đất Mân (Phúc Kiến), có người nói là Quế Lâm
(Quảng Tây)”. Cuộc sống trên sông nước, làm di dân trôi nổi khiến họ
không thể nhớ gốc tích xa hơn. Li Tana
tộc Đản ghi chép trong thư tịch Trung Quốc xưa, có nguồn gốc Giao
Chỉ, gọi là “Giao Chỉ Đản” (Lĩnh ngoại đại đáp 1178) và còn lưu dấu
đến bây giờ.
Ngày nay người tộc Đản đã được chính quyền Trung Quốc ghi
với chữ mới (Hán Việt): Đan/Đơn, bỏ mất tên với bộ “trùng” khinh
miệt xưa kia. Họ sinh sống dọc biển Quảng Đông, Quảng Tây, Hương
Cảng, Hải Nam, qua Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, mang các tên
Thuyền Hộ, Đản, Đản Gia, Ngái, Soisangyang (Thủy Sinh Nhân)...
Tuy được ghép vào bộ phận của tộc Hán chính thức và nói tiếng Hoa
(phương ngữ Quảng Đông), nhưng bản thân những người này vẫn coi
như một tộc riêng biệt, và nhiều học giả, kể cả người Hoa cũng công