vẫn giữ thuyền chờ mình, thốt lên lời khen về “chim hồng hộc bay cao
nhờ sáu trụ cánh”, lời liên tưởng ấy hẳn không phải là tình cờ. Tính
cách sông nước cũng giải thích được sự buông thả tính dục và lối kết
hôn trong thân tộc của nhà họ Trần. Lên làm vua mà con trai còn đi ăn
cướp như dấu hiệu của quá khứ gần, thì người nữ chọn trai cho vừa ý
thích cũng chỉ là sự tương đồng trong sinh hoạt mà thôi. Cho nên,
dòng họ lên làm chủ nước, chàng cả Trần Liễu hiếp cung phi Lý lúc
ban ngày ban mặt trong lần có buổi hội họp quần thần, bị nhóm nho
thần cựu trào đàn hặc, tuy phải xuống chức nhưng nơi chốn bị “nhơ
uế” ấy lại mang tên Thưởng Xuân (hai năm sau được nhắc thêm lần
nữa), biểu lộ một tâm tình phơi phới, khoái trá, đầy khích động tính
dục của tập họp Trần, không tỏ ra có chút ân hận, hối tiếc nào.
Do tính cách di chuyển của tông tộc như thế nên bây giờ ta có thể
hiểu tại sao sử quan phân vân về nguồn gốc Trần: Mân (Phúc Kiến)
hay Quế Lâm (Quảng Tây)? Có thể trên đường phát xuất từ đất Mân,
họ đã ghé vào Quảng Tây một giai đoạn. Và trước khi đến Nam Định,
họ cũng đã bám trụ trên vùng Quảng Yên, với chứng tích “Yên Phụ,
Yên Dưỡng, Yên/An Bài, Yên Hưng, Yên Bang” là đất phong cho
Trần Liễu (1237) để đền bù chuyện mất vợ. Trần đến đất Việt mà ở
trên sông nước thì không phải va chạm với Lý đang nắm quyền trên
đất liền. Như thế cũng có nghĩa là họ hành động độc lập, chia từng khu
vực quyền lực với các toán sông nước khác.
Ta không rõ các nhóm ấy tên gì nhưng thấy họ xuất hiện mang
tính tập thể sông nước trong hội nghị Bình Than (1282) trên một bến
sông (vũng Trần Xá), họp “vương hầu và trăm quan”, trong một ý
nghĩa bao quát, thô thiển, đó là họp lãnh tụ Miền Dưới và Miền Trên
(Thăng Long). Chi tiết hơn, trong tập họp đương cự Nguyên cuối 1284
có tên các xứ Ba Điểm, Bàng Hà, Na sầm, Vân Trà/Hương Trà, Yên
Sinh, Long Nhãn, trong đó hai hương Ba Điểm, Bàng Hà bị trừng trị
sau chiến tranh cho ta suy đoán về tính độc lập của các xứ kia. Hương
Trà vẫn giữ một chừng mực riêng biệt đến nỗi năm 1344 còn làm nơi