phát xuất của loạn Ngô Bệ kéo dài đến 1360. Chúng ta lại còn biết
thêm rằng hương Bàng Hà là gốc của Mạc Đĩnh Chi. Trần Quý Nha
(tiến sĩ 1748), tác giả Công dư tiệp ký tục biên không những dựa Toàn
thư mà còn dẫn địa danh để chứng minh đất Bàng Hà là của Mạc.
Trong cuộc chiến với Nguyên đã có rất nhiều người đầu hàng phe
địch, Trần phải làm lơ, thiêu hủy chứng cớ nhưng còn giữ tên hai
hương, vì đó là chuyện “phe sông nước” của mình, trừng trị được mà
không gây biến động lớn, chứ không phải chỉ có hai nơi ấy mà thôi.
Vấn đề họ Mạc cũng khá phức tạp. Có những thủ lãnh Mạc
(không có gì chứng minh là đồng tông) đeo đẳng suốt đời Lý, qua
Trần tuy ép mình làm gia thần (như Mạc Đĩnh Chi với Trần Ích Tắc)
nhưng vẫn còn giữ thế lực đến Hồ, Minh thuộc, Hậu Lê, qua thời gian,
lập nên triều Mạc. Toàn thư đã sắp xếp ra một phả hệ liên tục kể từ
Mạc Hiển Tích (thế kỷ XI), và còn cả bia đá (1470) đời Lê Thánh
Tông liên hệ đến làng cổ Trai của Mạc Đăng Dung, nhưng thư tịch
Trung Quốc lại níu họ Mạc Cổ Trai vào với một dòng di cư khác. Mạc
Kinh Thự trong tờ khai với quan chức Mãn Thanh đã kể gốc ông cha ở
thôn “Trà Hương, huyện Đông Quan, Quảng Đông”
. Có thể họ
Mạc thất thế phải viện dẫn thật xa đời để làm kế nhờ cậy, chứ đến lúc
cầm quyền thì Mạc đã hòa hợp với vùng trên, mang ý thức Việt rõ
ràng rồi, chứng cớ là con cháu những người trên vùng biển chạy loạn
thế kỷ XVI tập họp trên các đảo ven bờ Quảng Tây ngày nay nhận
mình là Việt, rồi với sự xuất hiện của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam họ đã đổi thành Kinh.
Nhưng dù sao thì Mạc Hiển Tích ve bà
thái hậu mà không ai dám xử, Mạc Đĩnh Chi trên xứ Bàng Hà bị xóa
sổ, thuộc về dân làm nô mà không sao cả, còn đỗ trạng, đi sứ, tất cả
chứng tỏ một vài họ Mạc đã có quyền lực riêng biệt trên một vùng
đồng ruộng, sông nước làm kiêng nể các chính quyền ở Thăng Long.
Cũng có thể với thế lực địa phương khó khu trừ đó mà Trần Quốc
Tuấn bao dung, đưa thêm một cánh tay an toàn cho họ Mạc, với dụng