của nhân loại (dưới bợ, trên chồng), và chuyển dùng cho cơ chế hôn
nhân của người Việt.
Lý Thánh Tông đem bộ linga-yoni của Chàm về trong trận 1069
(từ Thủy Vân, bắc Quảng Trị?), tuy hành động mang ý nghĩa thu phục
thần linh kẻ chiến bại nhưng lại không cho ta thấy là dị ứng với tục
thờ Bà Chúa Xứ, bởi vì VĐULT ghi rằng họ Lý đã đặt bà làm chủ đàn
Viên Khâu (1154), nơi vốn theo ý nghĩa gốc của nó là chỗ thờ Ông
Thiên, cha của vua. Sự tiếp nhận không gây thắc mắc chứng tỏ trong
các phong tặng đầy hiểu biết của đời Trần tiếp theo: 1285 Địa Kỳ
Nguyên Quân/Bà Chúa Xứ, 1313 Ứng Thiên Hóa Dục/Theo Đạo Trời
Sinh Sôi Nảy Nở, và 1288 Nguyên Trung/Vốn Thẳng Cứng Xuyên
Suốt, Không Lệch (ý nghĩa chỉ cái linga đối ứng với cái yoni trong
phong tặng trước). Các chùa gốc thờ thần Po Yan Dari Chàm, vào thời
kỳ “Bắc tiến” về sau, dưới lốt tổng hợp của Bà Chúa Xứ, đã xuất hiện
ở miền Bắc hoặc dưới tên thô lỗ mà chính xác: Bà Banh/Bà Đanh, Bà
Chúa Ngựa, hoặc dưới tên chuyển hóa ẩn tàng, nôm hoặc nho: chùa
Bà Ả, Nhà Nàng, Thiên Phúc (Văn khắc Hán nôm Việt Nam, tr.
248/bia 1620, tr. 332/bia 1622, tr. 474/bia 1562). Tất cả chứng tỏ một
sinh hoạt cúng lễ rất nghiêm chỉnh về cái giống trong suốt lịch sử Việt.
Lại thấy hai trường hợp chữa bệnh hiếm muộn trong đời vua Lý
Thánh Tông và ông con. Chúng tôi đã dựa vào truyền thuyết cho tới
ngày nay và một sơ hở của sử quan mà cho là vào thời đó, các ông
pháp sư đã nghĩ rằng có thể sử dụng thân xác mình làm phương tiện
chữa bệnh (Thần, người và đất Việt). Không hẳn là một sự lợi dụng
nhưng là một tin tưởng kiểu của Mật giáo đem vào hành động. Ở cấp
cao trên triều đình thì có một ông sư thực thụ (Từ Đạo Hạnh) và một
ông gián tiếp làm việc truyền đạt (Đại Điên, sư chùa Thánh Chúa dạy
cho Nguyễn Bông). Địa điểm chùa, tên Cánh đồng Bông của nạn nhân
mà các tác giả Toàn thư còn biết, đã chứng tỏ một phần sự thật. Cả hai
thầy pháp đều làm cùng một việc chữa bệnh là “lẻn vào nhà tắm” (như