được ở Tống Nho một lý thuyết, một phương tiện xóa bỏ sự cách biệt
giữa dòng giống Mường Thái của nhà mình để trị đám quan dân trung
châu của Trần còn lưu luyến chủ cũ.
Không phải bỗng nhiên mà vấn đề nổi bật dằng dai của thời gian
Lê trị nước, đầu tiên là vấn đề tranh luận về lễ nhạc thi hành trên triều
đình như thế nào. Công cuộc cải cách lễ nhạc diễn tiến trong sự giằng
co giữa bảo thủ và đổi thay, nằm cả trong quan điểm của hai phe đối
nghịch với đại diện là Lương Đăng và Nguyễn Trãi nhưng căn bản vẫn
là “phỏng theo quy chế của nhà Minh” đương thời. Tổ chức học hành
thi cử nhặt nhiệm, thường xuyên hơn thời trước đã đem những nguyên
tắc Nho đi vào tầng lớp dân chúng rộng rãi hơn. Cho nên những
gương tiết nghĩa, những việc trừng trị các quan dân không theo “lễ”
cũng được ghi nhận nhiều hơn.
Vợ góa của Nguyễn Văn Điều là tiết phụ được cấp bảng vàng
(1456). Người ta truy tặng cả những nhân vật trong quá khứ: Lê Thị
Liễn (ghi được cả tên họ), vợ Túc vệ Lương Thiên Tích đời Hồ, có
nhan sắc, góa chồng sớm, không con, ở vậy, được biểu dương (1437).
Trong lúc đó thì Quốc tử giám sinh Lê Tử Dục dụ dỗ vợ cả, vợ lẽ của
người khác (mắc cùng các tội khác) liền bị xử chém. Hàn lâm viện đãi
chế Vũ Văn Phỉ thông dâm với mẹ vợ, tuy bỏ tiền chuộc tội nhưng vẫn
phải đi đày, bất thường, khác với trường hợp trạng nguyên “Lợn”
Nguyễn Nghiêu Tư (1448) vẫn cứ còn khoa bảng, làm quan triều đình.
Vấn đề phức tạp có vẻ là do có thêm những hục hặc phe phái chen
vào. Ngay đến người có tên trong biển ngạch công thần (1429) như Lê
Thụ mà vẫn bị hặc tội: (đầu 1435) “đang có quốc tang lại lấy vợ lẽ...
không theo lễ, phép”. Bà Dương hậu từ xưa được ngồi chung với hai
ông chồng Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành nay phải di dời. Đến ông
vua Hùng quốc tổ được Ngô Sĩ Liên chế biến để phục vụ chủ mới
cũng bị chê mất ngôi chỉ vì ham ăn uống, vui chơi.
Quy chế Lễ của Khổng Tử rất gắt gao trong việc phân biệt giao
tiếp trai, gái. Nam nữ không được ngồi lẫn lộn với nhau, không treo