động theo với sự thành lập các giáo phường, nhưng tính chất cấp thấp
của chúng khiến cho sinh hoạt các thành phần không xa rời nếp sống
phóng túng tự nhiên thường nhật, khác với sự câu thúc triều đình
muốn có. Đó là đầu mối của sự khinh miệt “xướng ca vô loài” mà
những người dù bất mãn với quan niệm trên cũng không thể phủ nhận
những bằng cớ còn xuất hiện mãi đến ngày nay. Đào với kép, đào
chính với bầu gánh, với chức quyền địa phương, có khi trở thành một
tầng lớp mại dâm không chuyên nghiệp, khuất lấp mà vẫn có đó trong
sinh hoạt xã hội thường được mô tả là thanh cao dưới ngòi bút của văn
nhân, sử thần.
Các dấu vết ấy phải nhờ các biến loạn mới bày tỏ ra dưới ngòi
bút của những nho sĩ, nhân dịp thoát được sự kềm thúc của “cương
thường đạo lý” để sống buông thả - tuy theo lẽ thường cũng tránh né
bằng văn từ hoa mỹ. Đò sông Hương không phải đợi tới thực dân
Pháp mới có, vì điệu nhạc các bài nam bình, nam ai đi theo các câu hò
mái đẩy, tuy không để lại chứng cớ về thời điểm nhưng rõ ràng là xuất
hiện từ rất lâu. Nguyễn Du đã thưởng thức tiếng đàn của người ca kỹ
thành Thăng Long, cùng với đám quân tướng Tây Sơn chắc là há hốc
mồm theo với tiếng nhạc lời ca. Sao lại có thể nghĩ rằng “cầm giả” này
chỉ hát làm vui cho tác giả Truyện Kiều mà lúc khác không làm việc
như người kỹ nữ bến Tầm Dương xưa kia? Người của nhà thế gia này
không xa rời sách vở, không giã từ thánh Khổng một thời gian lâu dài
thì hẳn không biết đến “nước vỏ lựu, máu mào gà”, không thể viết
những câu như: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà, Dày dày sẵn đúc một
tòa thiên nhiên” được. Thi sĩ ngắm nghía, trầm trồ rồi câu thơ vọt
thoát ra như một thứ orgasme qua thi tứ, một thứ khoái trá được giải
thoát của kẻ phải chịu ép mình trong kềm thúc lâu ngày. Trước ông
một chút, nho sĩ võ biền Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều tả cảnh ân ái
“Bóng dương lồng bóng đồ mi chập chùng”, theo cách nói khác của
bình dân “Gặp thằng vua phải gió nó đè em cung nữ ra”. Cung oán
ngâm khúc là một trang sách của những hồi tưởng dài về sex. Ở những