vương, tuyệt đối tránh nói chuyện tính dục, nên chuyển qua việc Thái
Tông “mắc chứng sốt rét (?!)”. Thi Lộ vào hầu, chẳng để vua làm
phiền (!) gì nhưng vẫn bị tội thí quân, gây vạ cho ông chồng già
Nguyễn Trãi. Tự Đức gạt bỏ danh hiệu “người hiền” thiên hạ gán cho
Nguyễn Trãi vì “Trãi nếu là người hiền thì sớm liệu rút lui, ẩn náu
tung tích... (trái lại) thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ...
(nên) cái vạ tru di cũng là do Trãi chuốc lấy”. Ông vua không-thể-có-
con này chắc không chú ý đến một chi tiết khác của Toàn thư: “Tháng
9 ngày 9, giết bọn hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng vì khi Nguyễn
Trãi sắp bị hành hình, có nói là hối không nghe lời của Thắng và
Phúc”.
Tự Đức mà chú ý đến sự kiện này, thì Nguyễn Trãi còn tệ hơn là
không phải “hiền giả” nữa. Nhưng hãy xét theo tính cách một mưu
thần nổi danh, của Nguyễn Trãi, người thấy được tình thế đương thời
của chính mình, phải chọn lựa đường lối thoát thân mà kết quả tàn hại
cho bản thân, cho gia tộc không phải là do ông kém cỏi. Sự xung đột
sau chiến tranh giữa Trần cũ và Lê mới, giữa truyền thống tông tộc
Thăng Long và sức mạnh phụ đạo Lam Sơn không phải là điều tưởng
tượng mà người tôn vinh tinh thần đoàn kết dân tộc thời bây giờ có thể
cho là chuyện vu khống xấu xa. Sử quan Lê chỉ nói chuyện giết Trần
Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo “người Kinh lộ” bên lề những sự kiện
khác, nhưng ý định tránh né lỗi của vua, đổ tội cho các nịnh thần cũng
là một chỉ dấu của sự xung đột không nằm trong tính cách cá nhân mà
có dạng tập thể.
Võ tướng đủ sức lật đổ chính quyền mới đã bị giết, nhưng có thể
buông tha cho văn thần không nguy hiểm, chỉ vì còn cần họ cho việc
trị nước vốn nằm trong tay các võ tướng Lam Sơn, những người chỉ có
mỗi một quyết định là “giết”. Trong việc xử tử bảy tên ăn trộm vị
thành niên (1435), Nguyễn Trãi nói chuyện nhân nghĩa, dẫn Kinh Thư,
Tả truyện liền bị các đại tư đồ Lê Sát, Lê Ngân đùn đẩy, nói dỗi: “Ông
có nhân nghĩa có thể cảm hóa người ác thành thiện, xin giao chúng