phiền ông cảm hóa cho”. Nguyễn Trãi đã gặp xung đột với Lương
Đăng trong việc chế định mũ áo, nhạc lễ mới cho dòng họ cầm quyền
từ lâu vốn chỉ biết mặc khố đâm trâu hội thề. (Quan tài ông Lê Tương
Dực +1516 còn có cái khố đấy!) Quan văn gốc Lam Sơn cũng vậy:
ngôn quan, thái sử Bùi Thì Hanh cùng với ông Lễ bộ thị lang gốc đạo
sĩ làm lễ giết vượn sống cứu mặt trời, bị Đồng Hanh Phát, học trò của
Nguyễn Mộng Tuân (“người tài sĩ”, theo Phan Phu Tiên), bài bác tâu
với vua là không nên sử dụng “bọn âm dương, bói toán” làm mất thể
thống triều đình. Cũng chính Đồng Hanh Phát xin bỏ lối hát rí ren của
Thanh Hóa, và khi Bùi Thì Hanh bị giáng thì Ngô Sĩ Liên “Kinh lộ”
ghi là “mọi người rất khoái chí”. Văn quan cấp dưới có thể chịu luồn
lọt ẩn nhẫn để thoát, hay dựa vào thế cần đổi thay của nhóm Lam Sơn
để tiến thân nhưng công thần Nguyễn Trãi đã từng nằm ngục ngay lúc
“Chiếu bình Ngô” chưa ráo mực, tất thấy thế mình khó hơn nhiều.
Muốn thoát được, ông phải vận dụng công sức nhiều hơn. Vì thế với
óc mưu sĩ, ông đã cho Thị Lộ vào cung tìm thanh thế tận bên trong.
Lời các hoạn quan can ngăn không làm ông co lại mà còn như chỉ dấu
rằng mưu định của ông có cơ sở vững chắc hơn: vua 17, 18 tuổi con
nít ham sắc thì “vợ” ông, lớn tuổi hơn, lão luyện hơn, càng dễ xỏ mũi
đắc thế hơn chứ sao! Không thấy bà Thị Lộ xúi được vua giáng chức
ông đại công thần Đinh Lễ “cưng” của Lê Thái Tổ là gì! Vậy thì
Nguyễn Trãi không “hiền”, là “thứ dữ” nhưng chỉ vì không vượt qua
được tình thế không ngờ, để ngăn trở cơn “thượng mã phong” của Lê
Nguyên Long Thái Tông, mà ông mắc vạ đấy thôi. Lại không phải chỉ
Thái Tông mà Hiến Tông có vẻ cũng chết cùng nguyên cớ: “Tháng 5,
ngày 23 (1504), vua vì ham nữ sắc bị bệnh nặng”, và ngày hôm sau thì
băng. Còn nhanh hơn cái chết của Nguyễn Tự cuối Lý qua Trần.
Tình thế ghen tuông trong cung cấm cũng thấy dưới đời Lê
Thánh Tông tuy không xảy ra một vụ Nghi Dân khác. Không có
chuyện lịch sử lặp lại nhưng vẫn có diễn biến dẫn đến những tình thế
thú vị hơn nhiều. Sử quan Vũ Quỳnh, người chứng đương thời, nói rõ: