Gốc đồng tiền đồng là của thiên triều Trung Hoa, Cùng là xuất
phát từ Trung Hoa mà Cao Ly/Triều Tiên/Đại Hàn (rắc rối quá!) và
Nhật Bản đều giữ đơn vị “nguyên” của Tàu: won và yen. Chữ nguyên
đã thấy ở tập hợp “nguyên bảo” trên tiền đồng nhưng về sau được
nâng cấp, chỉ giá trị của kim loại bạc, và từ đó đi qua tiền giấy. Trong
lúc đó, chữ “đồng” còn lại ở nước An Nam chỉ vì người ta giữ lại tên
gọi từ một đơn vị trọng lượng tính cho đồng Khai nguyên thông bảo
(đúc lần đầu năm 624 Đường Cao Tổ) được quy định tương đương với
1/10 lượng: 10 đồng Khai nguyên nặng một lượng.
Cũng không nên tham lam mà kể chuyện thời Tam Hoàng, Ngũ
Đế. Chỉ cần biết đồng tiền trong hình dạng gần với chuyện ta kể, là
xuất hiện cuối cùng của thứ tiền kim loại thông dụng ở Á Đông, trước
khi các hình thức Tây phương đến thay thế. Một mặt đồng tiền có hai
chữ là niên hiệu của vua lúc đúc tiền (thường là năm đầu lên ngôi hay
đổi niên hiệu), hai chữ khác thường là “thông bảo”, “nguyên bảo”...
Mặt sau tròn láng, thỉnh thoảng có các chữ chỉ nơi chốn, năm thứ...
của niên hiệu đúc tiền, và có khi chỉ giá trị tương đương với đồng đơn
vị: đương nhị, đương ngũ, đương thập (gấp đôi, gấp năm, gấp mười)...
Có sự thống nhất trong phép đo lường xưa giữa một đơn vị tiền
và đơn vị trọng lượng, cả đến đơn vị chiều dài. Cho nên từ chữ Hán đã
có sự lẫn lộn, qua tiếng Việt sự phức tạp càng tăng thêm, về phương
diện trọng lượng, chữ tiền (Hán), đồng (Hán) chỉ một đơn vị nặng
bằng 1/10 lượng. Đồng tiền chồng chất làm cục cân, đồng tiền xếp nối
nhau làm đơn vị chiều dài, vì thế mới có cân non, cân già, thước non,
thước già! Về phương diện tiền tệ, tiền (Việt) là chữ tương đương với
mạch (Hán), đồng là chuyển sang Việt của văn (Hán), chỉ một đồng
tiền. Và vì lẽ dùng chữ “tiền” để chỉ một đơn vị tính đếm nói trong
một bài viết về tiền bạc bằng tiếng Việt thì dễ lẫn lộn, nên ở đây, khi
nào có thể được, chúng tôi chuyển qua cấp bực quan cao hơn để khỏi
gây rối rắm đầu óc. “Văn” được dịch sát là “chữ”, sinh ra biến giọng