tháng - hay có khi đã chuyển đổi cả hình thức tên gọi trong trường hợp
này không? Lại thêm một chữ Hán có thể đọc thành hai, nhiều lối,
trong một trường hợp trên nên đọc là sử tiền hay sứ tiền? Phần rất lớn
các dịch giả đều đọc là “sử tiền”, chỉ gần đây mới thấy Hà Văn Tấn
(chú thích Dư địa chí) dùng chữ “sứ tiền”.
Cổ tiền, tiền cổ, tiền xưa, tưởng là dễ nhận ra ý nghĩa nhất, nhưng
như thế nào để được gọi là “tiền cổ”? Lê Thái Tông khi quy định 1
quan ăn 600 đơn vị hẳn là để chỉ trước tiên vào các đồng Thuận thiên
của cha mình, các đồng Thiệu bình, Đại bảo của chính mình, nghĩa là
các thứ chẳng có thể gọi là “cổ”. Nếu muốn chỉ chung tiền niên hiệu
của các vua trước, vơ vào cả các niên hiệu của thiên tử phương Bắc
(tiền chắc chắn là tốt) thì khá đúng với thực trạng rất nhiều tiền Trung
Quốc trong các lô tiền còn tốt thấy được từ trong đất ngày nay. Nhưng
sao trong mộ cổ Gò Mun, người ta sắp từng cọc 36 đơn vị của Thái
bình thông bảo, tiền của Tống Thái Tông? (Ta suy đoán mà biết chắc
chủ nhân của chúng tuy báo cáo khai quật không nói rõ). Con số trên
là đủ cho một tiền gián tiền, cổ tiền đấy, sao không sắp từng cọc 60
đơn vị? Tiền chôn theo người chết là để ăn đường, để hối lộ khi qua
Quỷ Môn Quan mà đưa tiền-thiếu thì hàng quán nào nhận, quỷ sứ nào
bỏ túi rồi không quất thêm một roi?
Chữ tương đương với cổ tiền là quý tiền/tiền quý. Thấy tương
đương với tiền cổ, đọc trên một bản văn quốc ngữ, người ta dễ dàng
nghĩ quý là “quý giá” nhưng không phải. Trong hoàn cảnh riêng lúc
này, chúng tôi chỉ thấy nó xuất hiện năm 1625 trong sử với bản chữ
Hán kèm theo (Toàn thư, bản Chính Hòa, phần của Phạm Công Trứ,
tập III, tr. 328, 329, tập IV, 8b, 9a. Phan Huy Chú cũng có nhắc trong
Lịch triều hiến chương loại chí, Quốc dụng chí, tr 229. Tất cả đều căn
cứ trên một lệnh, chi tiết hơn, may còn văn bản được dịch trong Lê
triều chiếu lịnh thiện chinh, Sài Gòn 1961. tr. 68-71. Phần chữ Hán
kèm theo giúp chúng ta điều chỉnh các lời dịch sai, sót). Nội dung lệnh
đó nói về thuế thân nên các dịch giả có khi dùng chữ thuế thân thay