vào. Và đó là chữ “quý” chỉ tam cá nguyệt, mùa. Vì đó chúng ta có thể
nghĩ rằng tiền quý không phải chỉ riêng cho thuế thân mà còn là thuế
ruộng, nói rộng ra, tất cả các thứ thuế nộp cho triều đình. Phỏng đoán
không phải là vô căn cứ và nhân đó ta có thể suy ra lý do ghép đôi với
cổ tiền còn mãi đến về sau.
Từ thời Lê trung hưng (thế kỷ XVII, XVIII), những quy định về
thuế má, tặng thưởng có lúc nói sóng đôi tiền quý, tiền gián, hoặc chỉ
nói riêng đến việc thu tiền quý cho nhà nước thôi. Lệnh năm Thiệu
Bình thứ 1 (1434), Hồng Đức thứ 17 (1486) tuy chỉ là cấm người coi
kho, người thu nhận không được chọn lựa tiền quá gắt, nhưng rõ ràng
không có phân biệt loại tiền đồng nào, miễn bằng đồng là được. Và
cũng cho ta ngầm hiểu là nhà nước thu theo quan-đủ (600 đơn vị). Từ
1226, Trần đã quy định tiền tính mạch (thiếu trong dân chúng là 69,
còn tiền thường cúng, dâng lên trên, phải đủ 70, thì không lẽ ông Lê
Thánh Tông chịu thiệt, cứ để dân chúng theo thói tục riêng mà nộp chỉ
có 36 đồng một tiền? Căn bản lợi tức của nhà nước ngày xưa chỉ có
ruộng đất và thân xác người dân, vậy thì cách thu đủ như vậy đã khiến
cho chữ tiền quý đi vào trong cấp bực quan-đủ.
Chuyện thắc mắc về cách xếp đặt tiền cổ theo quan-thiếu trong
“mộ cổ” Gò Mun ở trên, chứng tỏ vào lúc đó người ta - hay gia đình
người chết, chỉ quan tâm đến cách tính đếm tiền mà không nghĩ đến sự
phân biệt phẩm chất của loại tiền sử dụng. Điều này đã khác đi theo
với thời gian. Chữ tiền gián với nghĩa rõ ràng là “tiền xấu” xuất hiện
trong sử vào năm 1528, khi sử quan nói về việc Mạc Đăng Dung đúc
tiền đồng pha kẽm, sắt sau khi đúc Minh đức thông bảo theo kiểu tiền
xưa, không được thành công. Không thấy Từ hải ghi chữ “gián tiền”.
Chữ “gián” ở đây có nghĩa là “xen lẫn”, “lẫn lộn”, “chỉ cách nhau một
tí”. Vậy là những nhà nho Việt của thế kỷ XVI có thể sử dụng một từ
Hán cũ cho mang ý nghĩa mới, tệ hơn, từ “cách nhau một tí” không
đáng quan tâm, đã chuyển sang “lẫn lộn” để chỉ loại tiền xấu đó theo
với sự đồng thuận của thời đại. Tiền gián đến đây có thể nói là thuộc