về một thứ tiền hầm-bà-lằng, miễn có sắc đồng, vành tròn lỗ vuông,
của chính thông cũng được, ngụy cũng xong, chính tà khó phân bởi vì
người dân đúc lậu thì gọi là tiền giả, nhưng chính nhà nước cũng đúc
tiền lấy danh xưng của các thứ đang lưu hành, nấp dưới uy tín có sẵn
của chúng. (Trong lệnh 1743 cho thấy Lê Trịnh đúc tiền Tống mà, nói
theo kiểu ngày nay, lại còn ép dân chúng phải chấp nhận sự sang đoạt
“bản quyền” đó trói buộc người ta không được loại bỏ). Chắc cũng
hiểu thứ tiền rắc rối đó được dân chúng chấp nhận, nên các dịch giả
ngày nay thường giải thích, chuyển âm sử tiền/tiền sử ra nghĩa “tiền
thường”, “tiền thông dụng” (tuy vẫn có sự lộn xộn là chính văn đôi khi
vẫn dùng chữ “thông dụng tiền” để chỉ cả tiền cổ lẫn tiền sử). Vậy có
lẽ từ khi Lê Thánh Tông chấp nhận (1467) lối tính quan-thiếu (360
đơn vị) của dân chúng chỉ ở sự khác biệt về số lượng đối với quan-đủ
(600 đơn vị) thì đến thế kỷ XVI, XVII, XVIII, đã tính đến sự chênh
lệch về giá trị tự thân (giá trị chất đồng) của đồng tiền lưu dụng, Sự
chênh lệch đó là do kết quả lẫn lộn phối hợp của chất tiền và cỡ tiền sử
dụng.
Cả hai ý nghĩa quan đủ, quan thiếu, đồng thời lợi dụng văn từ vặn
vẹo vừa theo lối tính đếm đơn vị vừa theo cách xác định giá trị, thấy
trong câu chuyện “đùa bỡn văn chương” của hai nhân vật sống ở thế
kỷ XVIII, XIX: Phạm Đình Hổ và Hồ Xuân Hương. Ta không cần
minh định tính xác thực lịch sử của loại chuyện tiếu lâm này. Chúng
chỉ là dấu vết ẩn ức tình dục, không phải chỉ riêng cho Hồ Xuân
Hương như nhiều người nghĩ đến, và có khi mượn S. Freud đưa ra làm
luận thuyết, mà là chung cho cả nhiều thế hệ nho sĩ, vốn chịu đựng
một thứ Khổng giáo mang tính duy lý từ chương gay gắt, trong lúc bản
thân vẫn sống trong một xã hội thôn dã tràn trề tính dục. Trong câu
chuyện trên, “bà” hỏi mượn “ông” năm quan, ông chắc vừa tiếc tiền
(“Bắc thang lên hỏi ông trời, Những tiền cho gái có đòi được
không?”) vừa sợ mất “gái”, nên chỉ đưa có ba quan. Đến khi bị bà vặn
hỏi: