không thấy dạng hình tả vẽ nhưng chỉ nghe đến tên, ta đã biết là tiền
cỡ nhỏ: Chính nguyên pháp bảo. Trị bình thánh bảo, nguyên bảo,
Thánh nguyên thông bảo... (“Tiền đúc ở Đàng Trong...” Những bài dã
sử Việt, sđd, tr. 284). Chúng tôi cũng từng thấy đồng Vĩnh định thông
bảo mà chúng tôi cho là của Đàng Ngoài, cùng dạng hình với một số
có danh hiệu khác, các tiền đó cũng không lớn hơn An pháp, tuy là
kiểu thức đúc đẹp hơn. Dạng hình của tiền gián đến lúc này có vẻ đã
rõ rệt đối với chúng ta hơn rồi vậy.
Vì thấy có sự chuyển dịch ý nghĩa của tiền gián qua nhiều thế kỷ,
nên ta cũng táo bạo xem thử có sự chuyển đổi nào ở cách nhìn sử tiền,
một tên khác của gián tiền, của dân chúng các thế kỷ XVII, XVIII
không. Nếu phỏng đoán của chúng ta là đúng thì trong trường hợp này
sự chuyển đổi có vẻ phức tạp hơn, cho thấy có sự thay thế từ ngữ
chuyển đổi nội dung ý nghĩa đi theo với xuất xứ hiện vật.
Ta biết những “tỉnh” (province) mà A. de Rhodes nói tới là những
vùng chung quanh thủ đô Thăng Long: Hải Dương, Sơn Tây, Sơn
Nam, Kinh Bắc, - (“bốn tỉnh chính”) và Thanh, Nghệ (“các tỉnh
khác”) - Danh xưng công quyền gọi chúng là “trấn”, nhưng dân chúng
đến gần đây vẫn gọi là “xứ” theo vị trí phương hướng: xứ Đông (có
làng cổ Trai - Dương Kinh của nhà Mạc), xứ Đoài, xứ Nam, xứ Bắc,
và đặc biệt: xứ Thanh, xứ Nghệ. Lê Quý Đôn khi nói về tiền Đàng
Trong cho biết dân Nghệ gọi cổ tiền là “thư tiền”, tiền cái, tiền to, như
vậy cũng nối tiếp - mà không biết đến ý của A. de Rhodes, là tiền nhỏ
“không dùng ở các tỉnh khác” (nghĩa là Thanh Nghệ). Vùng này trong
phân tranh Lê-Mạc thuộc riêng về Lê. Thăng Long cùng với tứ trấn,
cách biệt với Thanh Nghệ vào thời kỳ có loại tiền nhỏ lưu hành mà
khởi đầu dung dưỡng là từ trên triều đình với Mạc Đăng Dung đúc và
cho dùng loại kém giá trị (pha tạp chất mà căn bản vẫn là đồng) khiến
sử quan phải dùng đến chữ tiền gián để chỉ chúng. Có phải với tính
cách trung ương một thời của Mạc, sử tiền/tiền sử đã trở thành xứ