Ta chú ý đến một số hoàng hậu có chữ “quốc” kèm theo: Kiểu
Quốc, Cồ Quốc của Đinh Tiên Hoàng, Trịnh Quốc của Lê Đại Hành,
Lập Quốc, Tá Quốc của Lý Thái Tổ. Hẳn không phải các bà đó vốn có
tên cùng âm, mang ý nghĩa xa lạ khác nhau nhưng do sự diễn dịch của
sử quan, đã tạo ra sự đồng âm bắt buộc. Sau ngàn năm Bắc thuộc,
người thủ lãnh đã xưng vương thì các bà vợ phải được gọi với tên
trang trọng của tầng lớp thượng lưu Trung Quốc. Trừ bà Ca Ông còn
có dáng Di Lão gốc như của Đinh, tên các bà khác đều nghe rất kêu:
Đan Gia, Trinh Minh, Đại Thắng/Thánh Minh (Dương hậu), Phụng
Càn Chí Lý, Thuận Thánh Minh Đạo. Vậy thì chữ “quốc” trên chỉ có
nghĩa là “nước”, các bà trên là đại diện của một “nước”. Dấu vết tàn
dư của chữ “quốc” ở cuối đời Trần là việc phong cho bà thái trưởng
công chúa “Quốc” Hinh/Thiên Hinh ở “Lạng Quốc” (Lạng Sơn). Các
ông vua có tôn hiệu chữ Hán dài dằng dặc, các bà vợ có tên sang cả,
hẳn là do các quan học chữ Hán/nho (hay chính người Hán như trường
hợp Hồng Hiến của Lê Hoàn) đặt ra. Họ đã từng ghi chép sự kiện của
triều đại dựa theo các biến động tương tự ở phương Bắc: chúng ta đã
thấy sự tương đồng trong cuộc tranh chấp giữa Ngô Xương Văn và
Đinh Bộ Lĩnh với chuyện giữa Hạng Vũ và Lưu Bang, chuyện Lê
Hoàn cướp ngôi Đinh được diễn tả như cuộc binh biến Trần Kiều của
Triệu Khuông Dẫn lấy ngôi nhà Hậu Chu. Ý thức bắt chước cho được
ngang tầm với người cai trị cũ khiến cho cái cổng ngoài của kinh đô
Hoa Lư mang tên một biên ải của Trung Quốc, cửa Đồng Quan, nơi đó
thay vì có quan quân bị lưu đày canh chừng sa mạc, lại có người đầy
tớ (hoành) tước Phúc hầu tên Đỗ Thích, ngủ giữa trời nằm thấy sao rơi
vào miệng, nhân dịp trở về nhà chính, liền làm việc thí nghịch tưởng
là để hoàn thành thiên mệnh được trao.
Những cuộc phân tranh sau khi thành phần đế quốc Đường ở
phương Nam sụp đổ cũng tạo nên những lãnh chúa địa phương mà
hình tượng Thập nhị sứ quân không phải chỉ có 12 người, đã cho ta
thấy tính chất manh mún của nó. Ngoài vua Đinh ở Hoa Lư, trên vùng