đến truyện tích cứu người trên mặt biển của thần Bạch Mã. Bia đình
Lê Xá ở Hải Dương dựa theo Nguyễn Bính (thế kỷ XVI) ghi việc viên
tướng và con ngựa mất cổ, hẳn là nằm trong truyền thống ấy (Văn
khắc Hán nôm... tr. 136). Cho nên có thể nói triều Mạc đã tiếp tục đi
theo quá khứ của dòng họ mình, chủ động phát triển giao thương trên
mặt biển hơn các triều trước, và vì thiếu phương tiện nên phải sử dụng
một loại tiền nhỏ, kém phẩm chất mà đời sau dù chê bai vẫn không thể
chối bỏ được. Đó cũng chính là cơ sở khiến cho nhà Mạc cướp được
quyền bính, tạo dựng được một nền chính thống riêng, đủ sức giằng co
đương cự với Lê Trịnh trong hai phần ba thế kỷ giành làm chủ xứ Bắc.
Tóm lại, có thể nói từ thế kỷ XV (trở về trước bao nhiêu thì
không biết) tiền quý tiền gián chỉ là cách phân biệt quy định tính đếm
cho các loại tiền được coi là ngang giá. Còn có thể là từ thập niên thứ
hai của thế kỷ XVI, và thế kỷ XVII, XVIII trở về sau thì thêm vào đó
là sự phân biệt hai loại tiền khác giá trị. Lịch sử tiền gián, tiền quý
không phải chỉ là chuyện của hứng khởi hay tham tâm cá nhân, dù là
cá nhân cầm quyền, mà là của một phần đất nước vậy.
MỘT QUAN TIỀN TỐT
Một quan tiền tốt mang đi,
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra?
Thoạt tiên mua ba tiền gà,
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.
Trở lại mua sáu đồng cau,
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.
Có gì mà tính chẳng thông?
Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi.
Ba mươi đồng rượu chàng ôi!
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.