Và họ lên đường.
Bánh xe lăn nhẹ nhàng trên mặt con đường đất đóng băng. Người xà ích
đánh roi đen đét trong không khí, mấy con ngụa sải vó bon bon như thể cả
cái khối nặng phía sau - chiếc xe, những ông khách, hành lý và tất cả những
thứ vớ vẩn khác - chỉ nặng không hơn gì một cọng lông. Mỗi khi xe tiến
vào một làng mạc, người phụ việc lại đưa cái kèn của anh ta lên thổi, và
đám trẻ nít trong làng - chẳng sót một đứa nào - chạy đến cửa căn nhà lá
của chúng để ngắm chiếc xe ngựa đang phơi phới chạy qua.
Lúc mặt trời đứng bóng, họ vào đến một phố huyện; lần này, anh chàng
phụ việc bèn thổi một điệu nhạc thật vui nhộn với cái kèn của mình. Ông
Pickwick, từ đầu vẫn giấu kín đầu mặt trong cổ cái áo khoác, lúc này mới
thò đầu ra, dáo dác nhìn quanh. Chiếc xe ngựa đột ngột rẽ ngoặc chỗ góc
đường để tiến vào khu chợ; xe quẹo gấp đến nỗi ông Winkle - lúc đó đang
ngồi trên mép ghế, một chân buông lủng lẳng bên hông xe - suýt chút nữa
rớt xuống mặt đường; chỉ mấy phút sau, họ dùng lại trong sân một lữ quán;
tại đây, những con ngựa còn đang khỏe khoắn, đều được phủ chăn cẩn thận
để chống cái lạnh, đã chờ sẵn.
Khi ngựa được thay xong, ai nấy lại sẵn sàng tiếp tục cuộc hành trình,
chỉ trừ ông Pickwick và ông Tupman; hai ông này biệt dạng ở đâu chẳng ai
biết. Người xà ích hỏi với giọng chán ngán "hai ông béo ấy" đi đâu nhỉ. Rồi
ông ta và anh phụ việc, và Sam Weller, và ông Winkle, và ông Snodgrass,
và tất cả những người đang đứng rảnh rỗi gần đó bắt đầu lấy hết gân cổ réo
gọi í ới để tìm hai ông già mất tích. Người ta nghe có tiếng trả lời từ trong
quán, rồi ông Pickwick lúp xúp chạy ra, ông Tupmam bám sát sau lưng, cả
hai ông đều thở hổn ha hổn hển. Hai bàn tay ông Pickwick lạnh cóng đến
nỗi ông phải mất đúng năm phút mới moi ra được một đồng sáu xu để trả
tiền bia. Họ leo lên chỗ ngồi của mình, bẻ ngược cổ áo khoác lên, rồi chiếc
xe một lần nữa nhanh chóng tiếp tục ngốn lấy con đường đang trải dài trước