của Quốc hội đã dao động tuỳ theo mức độ tận tuỵ của từng giám sát viên
đối với trách nhiệm giám sát của mình và việc phương tiện truyền thông
đưa tin nhiều hay ít (và có tính thuyết phục đến đâu) về những việc làm sai
trái của CIA. Tuy vậy, nhìn chung mức giám sát là tương đối cao, nhất là
nếu so sánh với việc trước đây hầu như không có sự giám sát, hoặc xao
nhãng một cách hiền lành. Trong nửa đầu nhiệm kỳ của Reagan, các nhà
giám sát của Quốc hội đã giảm cường độ làm việc nhưng khi xảy ra vụ
Iran, do một tờ báo Trung Đông tố giác, họ đã quay lại với công việc của
mình.
Phản ứng về vụ bê bối Iran, nột uỷ ban của hai viện đã điều tra xem các
quan chức chính quyền đã làm thế nào mà qua mặt được hệ thống giám sát
mới. Sau đó, Quốc hội đã thông qua điều luật để thắt chặt hơn việc kiểm
sóat. Trong các luật mới, có một điều khoản về chấn chỉnh các trách nhiệm
của tổng thanh tra CIA, đòi hỏi Thượng nghị viện tổ chức tường trình để
duyệt y chức vụ quan trọng này và yêu cầu tổng thanh tra phải báo cáo
thường xuyên hơn cho Quốc hội (Fisher 1988; Kaiser 1994). Năm 1991,
Quốc hội cũng thông qua luật giám sát công tác tình báo, chủ yếu để làm
sáng tỏ và tăng cường tính trách nhiệm đối với các hoạt động ngầm
(Conner 1993).
Sự chú ý của Quốc hội đối với việc kiểm tra công tác tình báo có những
thăng trầm, nhưng xu hướng chung trong những giai đoạn cuối của chiến
tranh lạnh là rõ ràng: chính sách tình báo đã bước vào thời kỳ có quan hệ
đối tác giữa Quốc hội và ngành hành pháp. Như một Gíam đốc CIA đã nói,
CIA thấy mình đứng ở vị trí giữa hai ngành và đôi khi nghiêng về phía
ngành lập pháp (Gates 1992, 1994). Số lần tiếp xúc giữa CIA và Quốc hội
đã tăng lên trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh kết thúc.
Dấu hiệu khác của một cố gắng nghiêm chỉnh để theo dõi CIA và để thông
báo cho công dân Hoa Kỳ biết ít nhất một số hoạt động cuả CIA là một loạt
các cuộc điều trần tại Quốc hội từ năm 1991 đến năm 19945, trong đó các
nhân chứng CIA trình bày công khai - một điều hiếm thấy trong chiến tranh
lạnh (Johnson 1996). Năm 1993, Gíam đốc Woolsey có mặt trong tám lần
điều trần công khai; trong những năm trước, thậm chí sau cuộc điều tra