sống nguội lạnh, tâm trí mờ mịt hơn. Normandie và Nga nghe sao xa lắc,
còn mùa đông đã cận kề. Cái đói và sự cô đơn thì quá rõ rang trong khi
những gì còn lại đều hư ảo, hư ảo đến mức không thể tồn tại một thế giới
nào, một thời kỳ nào khác ngoài cái thế giới đầy bùn của chúng tôi, ngoài
cái chuỗi ngày cằn cỗi trì trệ mà giờ đây chúng tôi không tài nào hình dung
ra điểm kết.
Với con người sống trong một đơn vị đo thời gian bao giờ cũng có ý nghĩa
của nó, thời gian càng dài nội lực của người trải qua nó càng cao lên; nhưng
với chúng tôi từng giờ, từng ngày, từng tháng ì ạch trườn từ tương lai về quá
khứ bao giờ cũng có vẻ quá chậm, trở nên một thứ vô giá trị không cần thiết
mà chúng tôi chỉ muốn rũ đi càng nhanh càng tốt. Đã khép lại cái thời mà
mỗi ngày trôi qua đều sống động, quý giá và không thể lấy lại được, trước
mặt chúng tôi giờ đây là tương lai xám xịt và mờ mịt, như một rào chắn
không thể vượt qua. Với chúng tôi, thời gian đã chấm hết.
Nhưng đến tháng Tám năm 1944 bắt đầu có những đợt ném bom xuống
vùng thượng Silesia ngừng rồi lại ném không theo quy luật gì, kéo dài như
thế suốt cả mùa hè, mùa thu cho đến tận khi xảy ra khủng hoảng thực sự.
Cái công việc tập trung cao độ khủng khiếp để cho ra đời Buna đột ngột
dừng lại, và ngay lập tức gây ra những hoạt động rời rạc, điên cuồng và bột
phát. Ngày khởi công dây chuyền sản xuất cao su nhân tạo mà hồi tháng
Tám còn có vẻ sắp tới giờ dần dần bị hoãn lại, và cuối cùng thì bọn Đức thôi
không nói đến chuyện đó nữa.
Công việc xây dựng bị đình lại, sức lực của đám vô số nô lệ kia được điều
sang chỗ khác, và càng ngày càng tỏ ra hỗn loạn và thù địch, một cách thụ
động. Lần kiểm tra nào cũng phát hiện ra những sai sót phải sửa chữa. Cái
cỗ máy phức tạp vừa vất vả lắp xong mấy hôm trước lại phải tháo ra đưa đi.
Phải dựng thật nhanh các tường bảo vệ và chỗ trú ẩn nhưng chỉ ngay lần thử
đầu tiên đã lại thấy không hiệu quả và chắc chắn.