Họa hoằn mới thấy một tiếng pháo gầm xa hoặc gần, còn tiếng súng máy nổ
giòn giã cứ một chốc lại có. Trong bóng tối chỉ có ánh hồng của than.
Charles, Arthur và tôi ngồi hút thuốc cuốn từ các loại cỏ hương liệu lấy từ
phòng bếp, và chúng tôi nói rất nhiều chuyện về quá khứ và tương lai. Ở
giữa vùng đồng bằng bất tận đầy băng giá và chiến tranh, trong căn phòng
tối đầy vi trùng này. Chúng tôi cảm thấy thanh thản với lòng mình và với
thời gian. Chúng tôi một rã rời, nhưng lâu lắm rồi chúng tôi mới cảm thấy
cuối cùng mình cũng làm được một việc có ích, có lẽ cũng giống Chúa trời
sau ngày đầu tiên tạo ra thế giới.
20 tháng Giêng. Bình minh đã tới, đến lượt tôi nhóm lò sưởi. Ngoài cái
mệt, các khớp xương đau đớn nhắc nhở tôi từng giây phút rằng căn bệnh của
tôi còn lâu mới khỏi. Ý nghĩ phải ném mình ra cái giá lạnh ngoài kia để
kiếm lửa ở những lán khác khiến tôi rùng mình vì sợ.
Tôi chợt nhớ đến mấy viên đá lửa: tôi lấy một mẩu giấy thấm đầy rượu
mạnh rồi kiên nhẫn mài một viên đá thành một ít bột màu đen, rồi mài mạnh
viên đá vào con dao. Đây rồi: sau vài tia lửa đống bột bốc cháy, và từ mảnh
giấy bốc lên một ngọn lửa cồn nhạt màu.
Arthur phấn khởi tụt từ giường xuống và hơ nóng ba củ khoai tây trong số
khoai luộc từ hôm qua. Sau đó bụng đói và run rẩy, chúng tôi lại lên đường
thăm dò khu trại đổ nát.
Chỉ còn thức ăn (tức là khoai tây) cho hai ngày. Nước thì chúng tôi phải đun
tan tuyết, một việc khó nhọc vì không có cái đựng, tuyết thì tan thành một
thứ nước đen và lợ phải lọc mới dùng được.
Trại yên ắng. Những bộ xương đói khát khác cũng đi vòng quanh như chúng
tôi để tìm đồ, râu mọc dài, mắt hõm vào, thân thể giơ xương vàng vọt quấn
trong mớ giẻ. Lảo đảo trên đôi chân ra vào những cái lán không người mang
đi đủ thứ: rìu, xô, muôi, đinh. Tất cả đều có thể có ích, nhưng kè nhìn xa