được để họ giúp một tay nhặt rau. Towarowski, Sertelet, Alcalai và Schenck
chấp thuận.
Sertelet cũng là một nông dân vùng Yosges, hai mươi tuổi, anh ta dường như
vẫn sung sức nhưng ngày qua ngày tiếng nói của anh ta càng rõ ra giọng
mũi, như nhắc nhở chúng tôi rằng bệnh bạch hầu hiếm khi biết tha thứ.
Alcalai là một thợ thủy tinh Do Thái Toulouse, rất trầm tĩnh biết điều, bị
viêm quầng ở mặt. Schenck là một thương nhân Do Thái người Slovak, anh
ta đang khỏi dần bệnh thương hàn và ăn khỏe kinh khủng. Towarowski cũng
thế, anh này là người Pháp-Ba Lan, ngốc nghếch và lắm mồm, nhưng rất có
ích cho nhóm người trong phòng vì cái kiểu lạc quan dễ lây của mình.
Thế là trong khi những người ốm ngồi trên giường mình cầm dao gọt,
Charles và tôi quyết đinh đi tìm một chỗ để kiếm chồ nấu ăn. Một sự bẩn
thỉu không tả nổi tràn ngập khắp các khu vực của trại. Nhà xí nào cũng đầy
tràn, không ai lo đến việc dọn hằng ngày nữa. Những người bị kiết lỵ (có
đến hơn một trăm) đã làm bẩn mọi xó xỉnh của Ka-Be, trút đầy ra các xô,
các bình thường dùng chứa suất ăn, những cái bát. Không thể bước đi mà
không nhìn kỹ dưới chân, trong bóng tối thì không tài nào di chuyển được.
Mặc dù phải chịu cái lạnh vẫn đang rất buốt giá, chúng tôi ghê sợ nghĩ đến
chuyện sẽ xảy ra nếu chẳng may nhiệt độ ấm lên đến mức tan băng: sự
nhiễm khuẩn sẽ tràn lan không cứu chữa được, mùi thối chắc sẽ ngạt thở và
nhất là khi tuyết tan, chúng tôi sẽ hoàn toàn không còn nuớc nữa.
Sau một hồi lâu tìm kiếm cuối cùng chúng tôi cũng tìm đuợc một khoảng
trống vài gang tay không quá bẩn trong một chỗ trước là khu giặt giũ. Chúng
tôi đốt một đống lửa to rồi tẩy trùng tay bằng cách xát Clo và tuyết vào tay
để tiết kiệm thời gian và tránh biến chứng.
Tin tức về nồi xúp đang chín loan rất nhanh trong đám đông những kẻ dở
sống dở chết. Sau cánh cửa xuât hiện một đám đông những gương mặt đói
khát. Charles giơ cái muôi lên cho họ một bài diễn thuyết ngắn gọn mạnh
mẽ khỏi cần dịch dù nói bằng tiếng Pháp. Hầu hết bọn họ lui ra nhưng còn