chết, lại còn đầy sức sống với ngôn từ và cái nhìn linh động đáng ngạc
nhiên, bỏ ra trọn nhiều đêm dài thảo luận về những vấn đề Talmud khó
hiểu, bằng tiếng Yiddish và tiếng Hebrew với Mendi - một giáo sĩ tân thời.
Nhà vệ sinh là một ốc đảo thanh bình. Đây là một nhà vệ sinh tạm, nơi bọn
Đức chưa dựng lên những tấm ngăn bằng gỗ thường có để chia ra các phần:
"Nur fur Englander", "Nur fur Polen", "Nur fur Ukrainische Frauen", v.v...
và, cách đó một chút: "Nur fur Haftlinge"
. Bên trong là bốn Haftling ốm
đói ngồi, vai kè vai, một công nhân người Nga già râu ria với dòng chữ màu
xanh OST trên cánh tay trái; một thanh niên Ba Lan mang một chữ P lớn
màu trắng trên lưng và ngực; một tù binh người Anh, gương mặt bị cạo trọc
râu tóc và bộ đồng phục ka ki ngay ngắn, phẳng phiu sạch sẽ, ngoại trừ cái
dấu to tướng KG (Kriegsgafangener) trên lưng. Một Haftling đứng cạnh cửa,
kiên nhẫn đều đều hỏi tất cả những người đang vừa vào vừa cởi thắt lưng:
"Êtes-vous francais?
Khi tôi quay lại chỗ làm thi thấy xe chở đồ ăn chạy ngang qua, điều đó nghĩa
là đã mười giờ, một mốc giờ chấp nhận được vì giờ nghỉ buổi trưa đã lộ dần
ra từ đám sương mù tương lai, và chúng tôi bắt đầu tìm được thêm ít sức lực
từ sự mong chờ. Tôi vác thêm hai hay ba chuyến gì đó cùng Resnyk, cố sức
tìm những thanh tà vẹt nhẹ hơn thậm chí đến cả những đống nằm ở xa để
tìm, nhưng giờ này những thanh tốt nhất đã bị lấy hết rồi, chỉ còn lại những
thanh khó chịu với các cạnh sắc nhọn, nặng trịch tuyết với bùn, gắn những
miếng kim loại để lắp vào đường ray.
Khi Franz đến gọi Wachsmann để đi lấy suất ăn thì đã là mười một giờ,
buổi sáng đã gần qua buổi chiều thì ai cần nghĩ đến. Sau đó là khi bọn kia
quay lại vào mười một rưỡi, và thế là lại những câu hỏi rập khuôn, hôm nay
được bao nhiêu xúp ngon không, chúng tôi được từ trên hay từ dưới nồi. Tôi
cố để không hỏi những câu ấy, nhưng không thể không dỏng tai lên nghe
ngóng xem thế nào, hỉnh mũi đón mùi thơm gió đưa từ bếp đến.