bọn Ba Lan thì e sợ. Bọn họ đã ở trại đến năm thứ ba, và hiểu hơn ai hết trại
nghĩa là gì. Giờ thì bọn họ đang đứng quây thành vòng tròn, vai sát vai cùng
hát một trong những bài thánh ca bất tận của mình.
Tay Hy Lạp Felicio biết tôi. "L’année prochaine à la maison!", anh ta hết
lên với tôi rồi thêm: “à la maison par la Cheminée"
. Felicio đã từng ở
Birkenau. Bọn họ tiếp tục, giậm chân theo nhịp và say sưa với bài hát.
Khi chúng tôi cuối cùng cũng đã ra hết ngoài cửa trại, mặt trời đã lên khá
cao, trời trong. Giữa trưa có thể nhìn thấy núi; còn ở hướng Tây tháp chuông
của Auschwitz hiện lên thân quen mà phi lý (tháp chuông ở chốn này!),
những quả bóng phòng không buộc chặt vào rào cản ở khắp xung quanh.
Khói nhà máy Buna in đậm trong không khí lạnh, có thể thấy được một dãy
đồi thấp, phủ màu xanh của rừng: tim chúng tôi thắt lại, tất cả đều biết phía
bên kia là Birkenau, nơi đã kết thúc cuộc đời của vợ con chúng tôi và chẳng
mấy chốc là cả đời chúng tôi nữa, nhưng bình thường chúng tôi không quen
nhìn nó.
Lần đầu tiên chúng tôi nhận thấy cỏ ở hai bên đường cũng vẫn xanh: khi
không có mặt trời bäi cỏ trông như không phải màu xanh.
Buna thì không, Buna thì tuyệt đối xám xịt tối tăm. Cái đống khổng lồ toàn
sắt thép, xi măng, bùn và khói này là sự phủ nhận cái đẹp. Các con đường và
văn phòng của nó được đặt tên giống như chng tôi, chỉ bằng số và chữ, hoặc
với những cái tên không mang tính người, đầy điềm gở. Đằng sau hàng rào
của nó không mọc nổi một cọng cỏ, mặt đất đâm những thứ nước bùn và dầu
độc địa, chẳng có gì sống ngoài máy móc và nô lệ, và trong hai nhóm đó thì
máy móc còn có vẻ sống hơn cả con người.
Buna lớn như một thành phố: ngoài các sếp và kỹ sư người Đức ở đây còn
có bốn mươi nghìn người nước ngoài, nói khoảng mười lăm đến hai mươi
thứ tiếng khác nhau. Người nước ngoài sống ở các Lager khác nhau, còn
Buna là trung tâm: có Lager của tù binh chiến tranh người Anh, Lager của